
Áp dụng cách tiếp cận toàn diện và hệ thống trong quản lý tài nguyên nước bền vững
Những thách thức trong việc quản lý hệ thống TNN ở đô thị Việt Nam đòi hỏi cách tiếp cận toàn diện và tổng hợp trong quản lý TNN, trong đó, có thể xem cách tiếp cận được áp dụng ở một số quốc gia phát triển, cụ thể, TNN đô thị được đặt làm trung tâm, giảm thiểu việc sử dụng nước và tăng cường tái sự dụng nước trong công trình, do đó, giảm áp lực lên TNN thiên nhiên và giảm thiểu xả thải chất ô nhiễm ra ngoài hệ sinh thái đô thị.
Theo cách tiếp cận mới, nước thải sau xử lý là một bộ phận của hệ thống nước và cần được khai thác và tái sử dụng cho các mục đích cấp nước khác nhau. Ngoài ra, các nguồn nước khác như nước mưa hay nước ngầm tầng nông cũng cần được coi là một phần của TNN đô thị và cần được tăng cường sử dụng. Ưu điểm của việc khai thác nước mưa hay nước ngầm tầng nông (nước thấm-infiltration) không tốn kém về chi phí năng lượng như xử lý nước thải. Việc ưu tiên khai thác và sử dụng nguồn nước nào cần phải được đánh giá cụ thể về hiệu quả kinh tế - kỹ thuật và hiệu quả môi trường bao gồm cả tiêu thụ năng lượng.
Hai thập kỷ trước, Chính phủ đã thông qua cách tiếp cận quản lý tổng hợp TNN làm nền tảng cho quy hoạch, phát triển và quản lý TNN. Luật TNN năm 2012 đã có quy định về cách tiếp cận quản lý này, Chiến lược Quốc gia về TNN đến năm 2020 cũng khẳng định “Quản lý TNN phải được thực hiện theo phương thức tổng hợp trên cơ sở LVS”, tuy nhiên, việc triển khai vẫn còn nhiều bất cập. Bên cạnh đó, Quy hoạch tổng hợp LVS liên tỉnh có liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên LVS. Nhu cầu khai thác, sử dụng và yêu cầu về bảo vệ, quản lý nguồn nước của các địa phương là khác nhau, đặc biệt là các địa phương ở hạ lưu, phải chịu ảnh hưởng từ các địa phương ở thượng lưu. Do đó, cần có cơ chế giám sát định kỳ, bất thường của các cơ quan độc lập hoặc giám sát chéo giữa các địa phương.
Vì vậy, ngoài việc tổ chức thực hiện quy hoạch, cần quy định rõ nội dung về giám sát thực hiện quy hoạch trong Luật về trách nhiệm giám sát, cơ chế giám sát thực hiện quy hoạch tổng hợp LVS liên tỉnh. Đồng thời, đề nghị trong các văn bản dưới Luật hướng dẫn nội dung này cần quy định chi tiết về hoạt động giám sát thực hiện quy hoạch tổng hợp LVS liên tỉnh đảm bảo cho quy hoạch được thực hiện phù hợp với lợi ích của các địa phương trên LVS.
Bảo vệ nguồn nước, đặc biệt các nguồn nước phục vụ cấp nước sinh hoạt
Công tác bảo vệ TNN bao gồm: Xác định yêu cầu bảo vệ TNN đối với các hoạt động khai thác, sử dụng nước và các hệ sinh thái thủy sinh; xác định các khu vực bị ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt; đánh giá diễn biến chất lượng nước, phân vùng chất lượng nước; xác định các công trình, biện pháp phi công trình bảo vệ nguồn nước, phục hồi nguồn nước bị ô nhiễm hoặc bị suy thoái, cạn kiệt để bảo đảm chức năng của nguồn nước; và xây dựng hệ thống giám sát chất lượng nước, giám sát xả nước thải vào nguồn nước.
Đặc biệt, nguồn nước mặt dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt được quy định là phân vùng BVMT nghiêm ngặt (theo Luật BVMT năm 2020). Vì vậy, hành lang bảo vệ nguồn nước sinh hoạt, khoảng cách an toàn về môi trường đối với nguồn nước sinh hoạt cần được quy định đảm bảo việc bảo vệ nghiêm ngặt theo quy định này. Trong thực tế, rất nhiều đối tượng cần có khoảng cách an toàn về môi trường đối với nguồn nước sinh hoạt liên quan đến việc có thể phát thải các chất phóng xạ, chất độc hại đối với người, sinh vật, truyền nhiễm dịch bệnh hoặc gây ô nhiễm nguồn nước: Cơ sở sản xuất, kho chứa hóa chất; kho chứa, đường ống xăng dầu; nghĩa trang, trang trại chăn nuôi, bãi rác thải, chất thải, bệnh viện,... hơn nữa, cần bổ sung thêm trách nhiệm cho UBND các cấp trong việc tổ chức thực hiện quản lý về khoảng cách an toàn về môi trường đối với nguồn nước sinh hoạt.
Đầu tư hạ tầng kỹ thuật phòng chống suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước
Tập trung đầu tư xử lý nước thải và chính sách giảm thiểu ô nhiễm đóng vai trò then chốt cho việc quản lý chất lượng nguồn nước. Sự tăng trưởng dân số và phát triển kinh tế đô thị làm tăng mạnh nhu cầu nước sử dụng. Vì vậy, trở nên một hàng hóa có giá trị. Sử dụng hiệu quả nước thải sau xử lý sẽ hỗ trợ công tác cấp nước bền vững ở các đô thị. Đặc biệt, ở những khu vực khan hiếm nguồn nước và phải sử dụng nguồn cách xa đô thị, dẫn đến chi phí xây dựng hệ thống và chi phí bơm tăng cao. Do đó, nếu áp dụng các công nghệ nước phù hợp có thề xử lý nước đủ sạch để có thể sử dụng cho một số mục đích nào đó sẽ có ý nghĩa lớn về mặt kinh tế và BVMT.
Tái sử dụng nước thải sau xử lý là một khái niệm còn khá mới tại Việt Nam, dù với nhiều nguồn nước khác thì việc tái sử dụng này đã được áp dụng phổ biến cho nhiều mục đích sử dụng khác nhau bao gồm: Nông nghiệp, công nghiệp, đô thị, tái sử dụng nước thải sau xử lý để bổ sung nguồn nước ngầm, và tái sử dụng nước thải sau xử lý cho mục đích tạo cảnh quan, tái tạo hệ sinh thái tự nhiên. Nghiên cứu của WB (2030WRG, 2019) đã xác định xử lý và tái sử dụng nước thải là một lĩnh vực ưu tiên đầu, và lĩnh vực này có thể hấp dẫn nếu như tạo ra nguồn thu. Nghiên cứu cũng chỉ ra, việc tái sử dụng nước thải đô thị có khả năng làm giảm áp lực về TNN của TP. Hồ Chí Minh về mức “căng thẳng thấp” vào năm 2030. Đây là việc có giá trị, nhưng vấn đề đặt ra làm thế nào để hiện thực hóa và cần sửa đổi quy định như thế nào.
Xây dựng hệ thống thông tin tài nguyên nước quốc gia đáp ứng các thách thức quản lý nguồn nước ngày càng phức tạp
Quản lý TNN là một hoạt động dựa trên thông tin và dữ liệu. Tuy nhiên, công tác quản lý hiện nay đang bị hạn chế nhiều do việc thiếu thông tin và cách tiếp cận thông tin. Thông tin về ô nhiễm nguồn nước vừa thiếu vừa chưa đủ độ tin cậy trong khi đây là thông tin được đánh giá là quan trọng nhất xét về mặt kinh tế. Chính phủ cũng cần quy định rõ tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng TNN nào phải lắp đặt thiết bị quan trắc, các loại thiết bị cần lắp đặt, cách thức kết nối, chia sẻ dữ liệu với các cơ quan quản lý nhà nước để phù hợp với thực tế về trách nhiệm, đặc biệt là việc khai thác tại các hệ thống thủy lợi (giữa đơn vị quản lý hệ thống thủy lợi và đơn vị được cấp phép khai thác).
Dữ liệu chất lượng cao, được đo tự động rất cần cho quá trình lập kế hoạch và ra quyết định, cần xây dựng hệ thống thông tin nước quốc gia với hệ thống giám sát nước hiện đại và các công cụ phân tích nâng cao, tích hợp các dữ liệu thu thập được vào hệ thống một cách minh bạch để các bên liên quan có thể tiếp cận dễ dàng là một bước quan trọng thúc đẩy công tác quản lý TNN tốt hơn.
PGS. TS. TRẦN THỊ VIỆT NGA
Đại học Xây dựng Hà Nội