Đề xuất giải pháp đảm bảo chất lượng nguồn nước

Thứ hai, 12/6/2023, 08:27 (GMT+7)
logo Tại Kỳ họp thứ 5 tới, Quốc hội sẽ xem xét, cho ý kiến đối với dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Đóng góp ý kiến vào dự thảo Luật này, nhiều chuyên gia đã đưa ra quan điểm, đề xuất giải pháp nhằm đảm bảo chất lượng phòng chống nguồn nước bị ô nhiễm để phục vụ phát triển kinh tế-xã hội và đời sống của nhân dân hiệu quả hơn.

Đề xuất giải pháp đảm bảo chất lượng nguồn nước

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Ngọc Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường: Qua nghiên cứu dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) trình Quốc hội, tôi nhận thấy, dự thảo Luật đã tiếp cận và quy định cơ bản đầy đủ những nội dung trọng tâm, trọng điểm để thể chế hoá các chủ trương chính sách nêu trên và khắc phục các bất cập trong thực tiễn áp dụng luật, cụ thể là: Bổ sung các quy định nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước quốc gia, giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn nước từ nước ngoài và ảnh hưởng của BĐKH. Nội dung này được thể hiện xuyên suốt trong các Chương của dự thảo Luật, từ nguyên tắc, chính sách, điều tra, quy hoạch, bảo vệ, khai thác sử dụng TNN; phòng, chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra,... Bổ sung các quy định nhằm đẩy mạnh xã hội hoá, giảm nguồn lực đầu tư của nhà nước và tính đúng, tính đủ giá trị của TNN. Bổ sung các quy định về quản lý khai thác, sử dụng nước nhằm kiểm soát hoạt động khai thác, sử dụng nước và quy định về phòng, chống sạt, lở lòng bờ, bãi sông, hồ và các quy định về việc lập, công bố danh mục hồ, ao, đầm phá không được san lấp.

Bên cạnh đó, quy định rõ trách nhiệm của Bộ TN&MT, các bộ, ngành, địa phương, tổ chức, cá nhân trong việc xây dựng kịch bản ứng phó, điều hoà, phân bổ nguồn nước khi xảy ra hạn hán thiếu nước và thực hiện điều hòa, phân phối nguồn nước trong trường hợp hạn hán, thiếu nước. Đồng thời, bổ sung các quy định nhằm phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả trung ương và địa phương trong toàn bộ dự thảo Luật. Hướng tới quản lý TNN trên nền tảng công nghệ số, thống nhất về cơ sở dữ liệu, xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực, giảm thiểu nhân lực quản lý, vận hành, chi phí đầu tư vào của Nhà nước.

Đề xuất giải pháp đảm bảo chất lượng nguồn nước

GS. TS. Lê Hồng Hạnh - Hội Luật gia Việt Nam: Điều 72 Luật TNN năm 2012 quy định về các hoạt động trên LVS cần được điều phối, giám sát. Trong đó, có các hoạt động liên quan đến BVMT nước LVS, ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước, phục hồi nguồn nước bị ô nhiễm, cạn kiệt, phòng chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra trên LVS. Luật TNN cũng quy định về hoạt động xả nước thải có nguy cơ gây ô nhiễm, suy thoái nghiêm trọng chất lượng nguồn nước LVS; khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước và phục hồi các nguồn nước bị ô nhiễm trên LVS. Các hoạt động sử dụng đất, khai thác khoáng sản, bảo vệ và phát triển rừng trên LVS. Trách nhiệm thực hiện các quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước đối với hai lĩnh vực này đều gắn với việc điều phối, giám sát hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ TNN, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra trên LVS. Tuy nhiên, các quy định chưa gắn với đối tượng cụ thể cần điều chỉnh nên khó phân biệt đâu là hoạt động quản lý TNN, đâu là hoạt động BVMT nước. Trong trường hợp xảy ra các sự cố đối với nguồn nước thì khó xác định đâu là phạm vi điều chỉnh của pháp luật TNN và đâu là pháp luật bảo vệ môi trường nước.

Các quy định của hai lĩnh vực pháp luật này về đầu tư dự án xây dựng công trình khai thác, sử dụng TNN hoặc có hoạt động xả nước thải vào nguồn nước có ảnh hưởng lớn đến sản xuất cũng chồng lên nhau ở các quy định về công khai, minh bạch, lấy ý kiến nhân dân. Các quy định về TNN ở các LVS cũng có những sự chồng lấn với các quy định bảo vệ môi trường LVS.

 Việc cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng TNN, xả nước thải vào nguồn nước chưa được đảm bảo bởi các quy định pháp luật có khả năng tích hợp các khía cạnh bảo vệ môi trường, khai thác TNN, cân bằng lợi ích của các bên liên quan, quy hoạch. Đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhiều công trình được xây dựng, đưa vào hoạt động khai thác, sử dụng TNN, song chưa được cấp phép. Hầu như việc khoan nước ngầm chưa được quản lý do thiếu nền tảng pháp lý cần thiết.

Đề xuất giải pháp đảm bảo chất lượng nguồn nước

TS. Lê Anh Tuấn - Viện Nghiên cứu về biến đổi khí hậu (Đại học Cần Thơ): Một trong những cảnh báo về nguy cơ đe dọa an ninh nguồn nước là do tác động bởi sự vận hành các công trình thủy điện ở phía ngoài lãnh thổ Việt Nam và cả trong các dòng sông nội địa lên sự phân bố số lượng nước và làm thay đổi chất lượng nước. Sự hình thành hồ chứa để phát điện làm giảm hàng trăm ha rừng khiến vai trò điều tiết nước của rừng bị giảm. Nhiều công trình thủy điện xây dựng chỉ với mục tiêu phát điện mà không có dung tích phòng lũ là nguyên nhân khiến lũ lụt ở hạ lưu thêm trầm trọng. Một số công trình thủy điện đã dẫn nước qua các tuyến dòng chảy khác khiến hạ lựu dòng sông ban đầu trở nên khô hạn, ảnh hưởng xấu đến việc lấy nước cho sinh hoạt và canh tác của người dân ở hạ nguồn, nguồn nước ít ỏi của họ rất dễ bị ô nhiễm do không đủ mạnh để đẩy các độc chất đi. Nước chảy qua nhà máy thủy điện có thể bị chua hơn do sự phân hủy các xác bã thực vật chết trong lòng hồ, vùng hạ lưu dòng chảy khi thiếu nước trong mùa khô sẽ tạo điều kiện cho sự xâm nhập mặn dễ dàng hơn.

Điều quan trọng nhất trong chiến lược bảo vệ TNN nói chung và LVS nói riêng là phải có sự tham gia của cộng đồng như là những chủ nhân đích thực của nguồn tài nguyên quý giá này. Mặc dù, Luật TNN và các văn bản pháp lý khác có khẳng định vai trò của Ủy ban LVS. Tuy nhiên, sự tham gia của các thành phần khác nhau, cơ chế cho người dân giám sát và sử dụng TNN vẫn chưa rõ ràng. Các hành vi làm tổn hại nguồn nước cần phải được tiếp tục bị chế tài bằng công cụ luật pháp và tòa án. Việc khôi phục, trồng và bảo vệ nguồn rừng đầu nguồn và hai bên bờ sông cần phải đẩy mạnh và quản lý chặt chẽ hơn. Vấn đề đổi mới cơ chế quản lý TNN trong bối cảnh biến đổi khí hậu có nhiều mối quan hệ tương quan khá phức tạp.

Theo tôi, các cấp từ trung ương đến địa phương cần tiếp tục thúc đẩy việc xây dựng giải pháp quản lý TNN thông qua việc đổi mới theo hướng tổng hợp với kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu qua việc đầu tư kinh phí, hợp tác với các nhà khoa học, chuyên gia kỹ thuật, các tổ chức chính phủ quốc tế, các tổ chức phi chính phủ để cùng nhau chung tay xây dựng và triển khai các hoạt động cụ thể. Trong đó, cần có quy định các tiêu chuẩn của phát triển xanh, điều này không phải đơn thuần chỉ là một khẩu hiệu mà phải có những hoạt động và hành động thiết thực, trong đó, phải có những giải pháp khoa học trong quản lý tổng hợp LVS với sự tham gia của cộng đồng người và các tổ chức xã hội dân sự. Đây phải là một chủ trương nhất quán và mục tiêu tổng quát trong mọi kế hoạch chiến lược, quy hoạch phát triển và các dự án tăng trưởng KT-XH. Bảo vệ sự trong lành của các dòng sông không chỉ là nhiệm vụ của chính mỗi người dân mà còn là trách nhiệm công dân cho thế hệ tương lai của đất nước.

Phương Chi (lược ghi)