
Chuyển đổi kinh tế tuần hoàn hướng tới nền kinh tế xanh là tất yếu trên thế giới
Áp dụng kinh tế tuần hoàn (KTTH) đang là một xu hướng mạnh mẽ bởi chính những lợi ích cả về kinh tế, môi trường và xã hội mà nó được kỳ vọng mang lại như: Tạo ra cơ hội tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và giảm tác động môi trường, thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và ứng phó với BĐKH. Do vậy, KTTH đang được xem là một ưu tiên tất yếu trong phát triển kinh tế xanh. Những lý do chính buộc phải diễn ra sự chuyển đổi này là:
Sự gia tăng nhu cầu về nguyên liệu thô, trong khi nguồn nguyên liệu này ngày càng cạn kiệt, đặc biệt đối với nguồn tài nguyên khoáng sản, nguồn tài nguyên không thể tái tạo được. Sự phụ thuộc vào các nước khác, đặc biệt các quốc gia phụ thuộc nước khác về nguyên liệu thô. Sự phụ thuộc này dẫn đến căng thẳng về chính trị toàn cầu. Tác động đến BĐKH (phát thải khí nhà kính, đặc biệt là khí CO2) làm gia tăng quá trình BĐKH cực đoan, gây nên các hậu quả cực kỳ nghiêm trọng. Sự chuyển đổi sang nền KTTH với mục tiêu sử dụng năng lượng bền vững sẽ làm giảm quá trình BĐKH.
Tạo ra các cơ hội kinh tế, đặc biệt đối với doanh nghiệp và khoa học trong lĩnh vực việc đổi mới, thiết kế, tái chế và sáng tạo. Việc giải quyết các vấn đề liên quan đến khan hiếm nguyên liệu, sử dụng năng lượng bền vững, hạn chế rác thải tối đa trong từng công đoạn của vòng đời sản phẩm, tái sử dụng nguyên vật liệu có sẵn,… đòi hỏi sự đầu tư đáng kể về nguồn nhân lực khoa học có trình độ, tăng tính cạnh tranh cho nền kinh tế.
Ở góc độ chính sách, một số quốc gia đã ban hành các đạo luật và luật nhằm thiết lập nguyên tắc tái chế của nền KTTH.
Đức là nước đi đầu trong lĩnh vực này khi bắt đầu thực hiện KTTH vào năm 1996 với việc ban hành “Đạo luật quản lý chất thải và chu trình kín”. Luật cung cấp một khung khổ pháp lý cho việc thực hiện quản lý chất thải theo chu trình khép kín và đảm bảo khả năng xử lý chất thải tương thích với môi trường và khả năng đồng hóa chất thải.
Ở Nhật Bản năm 2000, Chính phủ nước này đã xây dựng một khung pháp lý toàn diện hướng tới một xã hội dựa trên tái chế với việc ban hành “Luật Cơ bản để thiết lập một xã hội dựa trên tái chế” có hiệu lực từ năm 2002. Luật cung cấp những mục tiêu định lượng cho việc tái chế và phi vật chất hóa lâu dài của xã hội Nhật Bản.
Trung Quốc cũng đang nỗ lực thực hiện KTTH trên quy mô lớn. Tuy nhiên, ngược với Đức và Nhật Bản, Chính phủ Trung Quốc nhằm duy trì khả năng cạnh tranh, ban đầu dự định áp dụng khung KTTH ở quy mô nhỏ hơn thông qua một số cơ chế thử nghiệm để có cơ sở tốt hơn nhằm đánh giá ở quy mô lớn hơn, cuối cùng là áp dụng cho toàn bộ nền kinh tế trong dài hạn. Chính sách này tương tự như tự do hóa kinh tế bắt đầu với các khu kinh tế tự do về chi phí.
Thái Lan đang thúc đẩy mô hình kinh tế Sinh học - Xanh - Tuần hoàn (BCG) khuyến khích áp dụng các kỹ thuật tiên tiến giúp gia tăng giá trị cho sản phẩm mà không hoặc chỉ có tác động tối thiểu tới môi trường. Với mục tiêu đạt được mức độ trung hòa khí thải carbon vào năm 2050, Thái Lan đang nỗ lực hành động để giảm phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính bằng cách áp dụng mô hình BCG và coi đây một con đường hướng tới phát triển kinh tế xanh, bền vững.
Một số quốc gia khác như Thụy Điển từ lâu đã liên tục đưa ra nhiều chương trình ưu đãi đối với kinh doanh tuần hoàn. Họ cũng đã cố gắng tạo điều kiện tối ưu để tăng tỷ lệ tái chế dần dần và hiệu quả thông qua giáo dục công. Chính sách này đã thành công và làm hài lòng các nhà hoạch định chính sách và các nhà môi trường. Thụy Điển, Đức và một số quốc gia châu Âu khác đã cố gắng kết hợp các đảng “chính trị xanh” trong hệ thống chính trị và quy trình ra quyết định của họ nhằm khuyến khích sự chuyển dịch nền kinh tế theo hướng KTTH.
Thúc đẩy thực hiện kinh tế tuần hoàn hướng tới nền kinh tế xanh tại Việt Nam
Việt Nam đang nỗ lực phát triền kinh tế theo hướng bền vững, giảm thiểu những tác động xấu đến môi trường và nền KTTH là mô hình được quan tâm, định hướng phát triển. Chủ trương phát triển KTTH đã được thể hiện trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 (Điều 142), cụ thể là: “KTTH là mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm giảm khai thác nguyên liệu, vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải phát sinh và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường.
Để ngăn chặn BĐKH, hướng tới sự phát triển bền vững, tại Hội nghị COP26 (tháng 11/2021), Việt Nam đã đưa ra những cam kết mạnh mẽ về giảm phát thải khí nhà kính với mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050, trong đó chuyển đổi cơ cấu năng lượng sang ưu tiên năng lượng sạch, tái tạo là trọng tâm. Cam kết này đã gửi đến cộng đồng quốc tế một tín hiệu rõ ràng về định hướng và quyết tâm của Việt Nam hướng tới phát triển một nền kinh tế carbon thấp và bền vững. Theo báo cáo Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) vào năm 2022, Việt Nam dự kiến cắt giảm tổng lượng phát thải khí nhà kính lần lượt là 15,8% và 43,5% vào năm 2030 với sự hỗ trợ từ các quốc gia khác.
Ngày 7/6/2022, tại Quyết định số 687/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án Phát triển KTTH ở Việt Nam. Hiện Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang dự thảo Nghị định về cơ chế thử nghiệm (sandbox) phát triển KTTH nhằm tạo ra khung chính sách, cơ chế hỗ trợ, đem lại sự yên tâm cho nhà đầu tư và doanh nghiệp thử nghiệm những ý tưởng, sáng kiến về KTTH.
Việt Nam đã công bố Nghị định số 06/2022/NĐ-CP về Quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn, trong đó có lộ trình mua, bán và chuyển giao tín chỉ các-bon, nhằm thực hiện các cam kết quốc tế. Theo đó, Việt Nam sẽ phát triển một thị trường các-bon bắt buộc vào năm 2027, bao gồm các hệ thống mua, bán, trao đổi và chuyển giao tín chỉ các-bon cũng như hạn ngạch cho các doanh nghiệp cắt giảm khí thải.
Đặc biệt hiện nay, Bộ TN&MT đang hoàn thiện và trình Chính phủ dự thảo Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện KTTH đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 với các nội dung cụ thể về: Nâng cao nhận thức, kiến thức, kỹ năng và phát triển các thực hành tốt về thực hiện KTTH; xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thực hiện KTTH; hỗ trợ thúc đẩy áp dụng KTTH trong sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng; quản lý chất thải để thực hiện KTTH; tăng cường liên kết, hợp tác, giám sát, đánh giá thực hiện KTTH. Đây là cơ sở hành động quan trọng để chúng ta triển khai áp dụng KTTH thống nhất, đồng bộ và hiệu quả, góp phần thực hiện thắng mục tiêu phát triển kinh tế xanh và bền vững đất nước.
Có thể thấy, phát triển KTTH hướng tới nền kinh tế xanh là xu hướng tất yếu và sống còn không chỉ riêng đối với doanh nghiệp mà cho cả nền kinh tế quốc gia trong bối cảnh thế giới đang định hình “luật chơi” mới về thương mại và đầu tư; tạo sức ép và cam kết giảm phát thải ròng khí nhà kính bằng “0” vào năm 2050.
Để thành công, Việt Nam cần tiếp tục chủ động nhận diện sâu sắc, thống nhất nhận thức và quyết tâm của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và người dân; lồng ghép phát triển các mô hình kinh tế vào các quy hoạch, chương trình và dự án đầu tư phát triển các cấp; không ngừng hoàn thiện và triển khai đồng bộ cả những giải pháp khung, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chung, cũng như những giải pháp đặc thù, phù hợp yêu cầu và mục tiêu phát triển của mỗi mô hình kinh tế mới; đẩy nhanh áp dụng tiến bộ khoa học, kĩ thuật và công nghệ trong sản xuất, chế biến, bảo quản đạt năng suất, chất lượng cao, gắn sản xuất với thị trường; thực hiện dán nhãn sinh thái, mua sắm xanh; phát triển thị trường sản phẩm sinh thái và sáng kiến cộng đồng về sản xuất, tiêu dùng bền vững; xây dựng văn hóa tiêu dùng văn minh, hài hòa, thân thiện với thiên nhiên và điều chỉnh những hành vi tiêu dùng không hợp lý,... đảm bảo tập trung vào mục tiêu cao nhất đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển có thu nhập cao, một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”.
NGUYỄN THỊ LAN ANH
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 4 năm 2024