Khai phá tài nguyên khoáng sản làm giàu đất nước

Thứ hai, 27/11/2023, 14:41 (GMT+7)
logo 78 năm qua, ngành Địa chất Việt Nam đã tìm kiếm, phát hiện nhiều nguồn tài nguyên có giá trị phục vụ phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Trong tương lai, việc tìm kiếm tài nguyên sẽ được nâng lên một bước bằng việc chuyển đổi số mạnh mẽ.

Khai phá tài nguyên khoáng sản làm giàu đất nước

Thứ trưởng Trần Quý Kiên cùng đoàn công tác kiểm tra thực tế tại hiện trường

Nước ta là nước có tiềm năng về tài nguyên khoáng sản. Theo báo cáo của Cục Địa chất Việt Nam: Đến nay, ngành Địa chất đã tìm kiếm, phát hiện được trên 5.000 mỏ và điểm quặng của khoảng 60 loại khoáng sản khác nhau. Một số khoáng sản đã được phát hiện và khai thác từ rất lâu như: Vàng, thiếc, chì, kẽm, than đá và các loại vật liệu xây dựng; số khác mới được phát hiện và khai thác như dầu khí, sắt, đồng,…

Bức tranh khái quát 78 năm

Với truyền thống 78 năm xây dựng và phát triển, ngành Địa chất Việt Nam luôn phát huy được truyền thống vẻ vang, sáng tạo, cần cù và đạt được nhiều thành tựu nổi bật gắn với chiều dày lịch sử, tiêu biểu là các công trình có giá trị về mặt khoa học, KT-XH đã đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước.

Thứ nhất, công trình lập bản đồ địa chất, khoáng sản tỷ lệ 1:500.000 phần đất liền và các đảo trên toàn quốc (1988) - công trình đã được Giải thưởng Hồ Chí Minh về KH&CN và công trình lập bản đồ địa chất khoáng sản tỷ lệ 1:200.000 phần đất liền (hoàn thành năm 1994).

Thứ hai, công tác lập bản đồ địa chất tỷ lệ 1:50.000 và đã hoàn thành hơn 73% diện tích phần đất liền. Cùng với công tác lập bản đồ địa chất, khoáng sản, các nhà địa chất đã phát hiện hơn 5.000 mỏ, điểm quặng, phát hiện và khoanh định các vùng quặng, đới quặng, cấu trúc thuận lợi cho tạo quặng, làm cơ sở để tiến hành các đề án tìm kiếm, đánh giá, thăm dò khoáng sản, xác định tài nguyên, trữ lượng các mỏ, điểm quặng.

Thứ ba, đã tổ chức nhiều đề án Chính phủ, đề án cấp Bộ về điều tra, đánh giá nhằm xác định tổng thể tài nguyên khoáng sản phục vụ xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH các tỉnh, thành phố; đã kịp thời đưa vào quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản giai đoạn 2021 - 2030 hàng trăm diện tích có tài nguyên khoáng sản tin cậy của 60 loại hình khoáng sản. Kết quả mang lại nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước thông qua đấu giá cấp quyền thăm dò, khai thác khoáng sản.

Thứ tư, hoàn thành giai đoạn I đề án điều tra, đánh giá và phân vùng cảnh báo nguy cơ trượt lở đất đá các vùng miền núi Việt Nam; chuyển giao tới chính quyền địa phương và các bộ ngành liên quan sản phẩm đề án phục vụ kịp thời phòng tránh, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra, góp phần phục vụ xây dựng dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH các tỉnh, thành phố miền núi Việt Nam.

Thứ năm, công tác điều tra địa chất phục vụ phát triển KT-XH như: Điều tra, đánh giá đặc điểm cấu trúc địa chất, địa chất công trình, đề xuất các giải pháp khai thác sử dụng lãnh thổ phục vụ xây dựng và phát triển hạ tầng dải ven biển Việt Nam; điều tra, đánh giá và phân vùng cảnh báo nguy cơ trượt lở đất đá các vùng miền núi Việt Nam. Công tác điều tra địa chất, khoáng sản biển đã hoàn thành điều tra vùng biển độ sâu từ 0-100 m tỷ lệ 1:500.000 trên tổng diện tích điều tra hơn 266.000 km2, hoàn thành điều tra tai biến địa chất, địa chất môi trường vùng biển độ sâu từ 0-30 m nước tỷ lệ 1:100.000 trên diện tích 41.100 km2.

Thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 10/2/2022 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Cục Địa chất Việt Nam đã và đang phối hợp với Cục Khoáng sản Việt Nam phối hợp hoàn thiện dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản. Đến thời điểm hiện tại, dự thảo đã được đăng tải lên Cổng Thông tin điện tử và gửi đến các bộ, ngành, địa phương để lấy ý kiến góp ý.

Cục Địa chất Việt Nam đã xây dựng, trình Thủ tướng chính phủ phê duyệt 3 văn bản chính của ngành địa chất giai đoạn 2021-2030 gồm: “Chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” và Kế hoạch thực hiện chiến lược của Bộ TN&MT; “Quy hoạch điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”; “Khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia”.

Đồng thời, Cục tiếp tục thực hiện 4 đề án Chính phủ: Điều tra tổng thể về khoáng sản và hoàn thiện nền bản đồ địa chất tỷ lệ 1:50.000 vùng Tây Bắc phục vụ quy hoạch phát triển bền vững KT-XH; Đánh giá tổng thể tiềm năng khoáng sản vùng Trung Trung Bộ phục vụ phát triển KT-XH; Chương trình trọng điểm điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đến năm 2030 và Đánh giá tài nguyên khoáng sản, phục vụ khai thác cát biển, đáp ứng nhu cầu san lấp các dự án đường cao tốc và hạ tầng giao thông, đô thị vùng ĐBSCL.

Kết quả công tác điều tra cơ bản địa chất, điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản đã phục vụ kịp thời phòng tránh, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra, góp phần phục vụ xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH các tỉnh, thành phố; đã kịp thời đưa vào quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản giai đoạn 2021 -2030 hàng trăm diện tích có tài nguyên khoáng sản tin cậy của 60 loại hình khoáng sản. Kết quả mang lại nguồn thu đáng kể cho NSNN thông qua đấu giá cấp quyền thăm dò, khai thác khoáng sản.

Quy hoạch Điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã thể hiện rõ quan điểm về tầm quan trọng và mức độ ưu tiên đối với lĩnh vực địa chất, khoáng sản. Đây là một quy hoạch lớn, góp phần hoạch định cho công tác quản lý, khai thác khoáng sản phục vụ mục tiêu phát triển đất nước. 

Để tổ chức thực hiện hiệu quả các Dự án điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản theo Quy hoạch phê duyệt, trên cơ sở định hướng Chiến lược địa chất, khoáng sản theo Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 10/2/2022 của Bộ Chính trị, cần hoàn thiện quy định pháp luật, trước hết là bổ sung, hoàn thiện hệ thống quy định nhằm mở rộng, tăng cường đa dạng hóa các lĩnh vực điều tra địa chất, ngoài lĩnh vực lập bản đồ địa chất khoáng sản và điều tra đánh giá tiềm năng khoáng sản, cần mở rộng các lĩnh vực khác như địa chất đô thị, điều tra địa chất không gian ngầm đô thị, di sản địa chất, địa chất môi trường, tai biến địa chất, điều tra cấu trúc phục vụ chôn lấp chất thải độc hại, khí carbon, điều tra địa nhiệt, điều tra khoáng sản đáy biển sâu.

Tiếp đó, xây dựng các giải pháp về cơ chế quản lý, tài chính cho các hoạt động điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản, ưu tiên đầu tư nguồn vốn ngân sách nhà nước cho các nhiệm vụ cấp thiết, nhiệm vụ trọng tâm để đảm bảo thực hiện theo tiến độ quy hoạch; có cơ chế, chính sách phù hợp, đảm bảo quyền lợi để thu hút nguồn vốn từ các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư, góp vốn đối với các nhiệm vụ đánh giá khoáng sản; huy động vốn của các địa phương, các ngành đầu tư cho điều tra địa chất đô thị, giao thông, điều tra khoáng sản vật liệu xây dựng, điều tra địa hóa đất phục vụ nhu cầu của địa phương.

Hơn nữa, cần đầu tư, ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến trong công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản; tập trung đầu tư nghiên cứu, lựa chọn áp dụng các phương pháp, công nghệ tiên tiến có hiệu quả, độ tin cậy cao, nhất là trong điều tra, đánh giá khoáng sản ẩn sâu, điều tra địa chất, khoáng sản biển, điều tra tai biến địa chất phục vụ ứng phó với BĐKH; điều tra địa chất phục vụ cải tạo phục hồi môi trường trong và sau khai thác khoáng sản. Tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; ứng dụng công nghệ số trong việc lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản; xây dựng cơ sở dữ liệu về quy hoạch điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản; cập nhật, tích hợp vào cơ sở dữ liệu quốc gia về địa chất và khoáng sản, cơ sở dữ liệu chung của lĩnh vực tài nguyên và môi trường cũng là những việc cần làm.

Thứ sáu, ưu tiên các nhiệm vụ cấp thiết, trọng tâm; đảm bảo tiến độ thực hiện quy hoạch về vốn, nhiệm vụ, mục tiêu của Quy hoạch; phối hợp đồng bộ, hiệu quả trong thực hiện Quy hoạch giữa cơ quan chủ trì thực hiện và các bộ, ngành liên quan và các địa phương nơi thực hiện các nhiệm vụ điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản.

Tiếp tục đổi mới để phát triển

Bên cạnh nhiệm vụ hàng đầu là phối hợp với Cục Khoáng sản Việt Nam và các đơn vị, các Bộ, ngành, lĩnh vực có liên quan xây dựng Luật ĐC&KS trình Quốc hội xem xét ban hành trong năm 2024, thời gian tới, ngành Địa chất Việt Nam sẽ hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật, định mức kinh tế kỹ thuật và đơn giá các dạng công việc điều tra cơ bản địa chất, điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản; tiếp tục xây dựng, đổi mới tư duy lãnh đạo, quản lý đáp ứng yêu cầu mới ngành Địa chất; tăng cường năng lực chuyên môn, công nghệ hiện đại, chuyển đổi số trong điều tra cơ bản địa chất, điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản nhằm xây dựng tài nguyên tin cậy các khoáng sản quan trọng, chiến lược, có quy mô lớn; ưu tiên điều tra, đánh giá tài nguyên khoáng sản biển.

Đồng thời, ngành Địa chất Việt Nam tiếp tục đổi mới phương thức đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, điều tra viên ngành địa chất có trình độ cao; tăng cường hợp tác đào tạo với nước ngoài phát triển đội ngũ chuyên gia địa chất; khôi phục và xây dựng chính sách, chế độ đãi ngộ hợp lý đối với ngành địa chất nhằm thu hút lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao, lao động trẻ làm việc tại các đơn vị sự nghiệp của ngành Địa chất.

Ngành sẽ đẩy mạnh hợp tác quốc tế song phương, đa phương hỗ trợ chuyển giao công nghệ mới vào quản lý và điều tra cơ bản địa chất trong điều kiện mới.

Song song với đó, ngành Địa chất xác định việc chuyển đổi số là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Theo đó, Cục Địa chất Việt Nam sẽ xây dựng và ban hành các quy định kỹ thuật, quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực địa chất theo hướng chuyển số ngay trong quá trình điều tra cơ bản địa chất. Đồng thời, tiếp tục chuyển đổi các dữ liệu đã được số hóa trước đây phù hợp với nền tảng dữ liệu lớn. Khai thác dữ liệu điều tra cơ bản địa chất, dữ liệu lớn là giải pháp đột phá làm nòng cốt chuyển đổi số phục vụ giải quyết các bài toán có tính chuyên môn sâu. Cục sẽ phát triển nguồn nhân lực và ứng dụng công nghệ tiên tiến, nâng cao kiến thức, năng lực kỹ thuật nhằm đảm bảo khả năng ứng dụng công nghệ mới, đủ trình độ để chuẩn hóa và tái cơ cấu quy trình nghiệp vụ phù hợp với thực tiễn.

Về công nghệ, Cục cần triển khai giải pháp thu nhận, lưu trữ, quản lý thông tin, dữ liệu được chia sẻ, kết nối với hệ thống cơ sở dữ liệu liên ngành địa chất; thiết lập môi trường chia sẻ, kết nối thông tin, dữ liệu trên cơ sở sử dụng nền tảng chia sẻ, tích hợp quốc gia; ứng dụng các giải pháp KHCN mới: Bigdata, IoT, dữ liệu mở, điện toán đám mây,…

Về thiết bị hạ tầng công nghệ thông tin máy chủ, các nền tảng, dịch vụ dùng chung đã và đang được Bộ TN&MT đầu tư tập trung, Cục Địa chất Việt Nam cần phát triển, xây dựng các bài toán cho từng chuyên ngành. Đối với các đơn vị, cần thực hiện việc triển khai đồng bộ các hệ thống phần cứng như: Máy tính, máy tính bảng cầm tay; các thiết bị đo đạc hiện trường được định vị chính xác, lưu trữ và truyền dữ liệu về máy chủ đơn vị; nâng cấp hạ tầng truyền dẫn băng thông rộng; ứng dụng nhật ký địa chất số; sổ đo ghi số.

Về phần mềm đầu tư, tập trung đơn vị đủ mạnh để khai thác, sử dụng hiệu quả các phần mềm chuyên môn sâu như tính tài nguyên, trữ lượng khoáng sản; địa vật lý, viễn thám, mô hình địa chất 3D, bản đồ địa chất 3D.

HOÀNG ĐẠI LÂM

Cục Khoáng sản Việt Nam

Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 20 (Kỳ 2 tháng 10) năm 2023