Một số góp ý dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường

Thứ hai, 20/12/2021, 10:07 (GMT+7)
logo Để góp phần triển khai Luật vào cuộc sống, xin có một số góp ý đối với dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật BVMT. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2022.

Sự cần thiết ban hành Nghị định

     Luật có nhiều quy định nhằm cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính (TTHC), góp phần giảm chi phí tuân thủ của doanh nghiệp thông qua các quy định: Thu hẹp đối tượng phải thực hiện ĐTM (ĐTM); tích hợp các TTHC vào 1 giấy phép môi trường; đồng bộ các công cụ quản lý môi trường theo từng giai đoạn của dự án, bắt đầu từ khâu xem xét chủ trương đầu tư, thẩm định dự án, thực hiện dự án cho đến khi dự án đi vào vận hành chính thức và kết thúc dự án. Lần đầu tiên, Luật thiết kế khung chính sách hướng đến việc hình thành đạo luật về BVMT có tính tổng thể, toàn diện và hài hòa với hệ thống pháp luật về KT-XH.

     Luật BVMT năm 2020 được thông qua với 16 chương, 171 điều (giảm 4 chương và tăng 1 điều so với Luật BVMT năm 2014), trong có 65 nội dung giao Chính phủ quy định. Để sớm đưa các quy định của Luật đi vào cuộc sống, đồng thời bảo đảm các điều kiện cho việc tổ chức thi hành Luật một cách hiệu quả, việc ban hành Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật BVMT năm 2020 là cần thiết.

          Dự thảo Nghị định đã được xây dựng một cách công phu với tinh thần cầu thị cao. Các quy định đã cơ bản quy định chi tiết được các điều, khoản được giao trong luật, bảo đảm sự thống nhất, thực tiễn và khả thi.

Chung tay hành động vì môi trường

Việc xây dựng dự thảo Nghị định cần tiếp tục thực hiện triệt để tinh thần cải cách hành chính; thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền; đẩy mạnh việc thực hiện xã hội hóa đối với một số dịch vụ công và chuyển giao một số nhiệm vụ quản lý nhà nước cho tổ chức xã hội, cho khu vực tư nhân thực hiện.

Một số ý kiến đề xuất

Về cải cách thủ tục hành chính và thủ tục trình nội bộ:

           Về nộp phí thẩm định cấp giấy phép môi trường (điểm c khoản 2 và điểm b khoản 4 Điều 29): Nên quy định việc nộp phí thẩm định cấp giấy phép môi trường đồng thời với việc nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy phép môi trường, cơ quan thường trực thẩm định không cần thiết phải ra thông báo nộp phí. Để thực hiện được việc này, cơ quan cấp giấy phép phải niêm yết công khai phương pháp tính phí hoặc mức phí cụ thể đối với trường hợp đề nghị cấp giấy phép môi trường.

Việc kiểm tra thực tế để cấp giấy phép môi trường (Điều 29): Đề nghị giảm bớt việc kiểm tra thực tế hoặc phối hợp với chính quyền địa phương để kiểm tra thực tế trong cấp giấy phép môi trường, theo đó nên quy định các trường hợp phải thực hiện kiểm tra thực tế theo quy mô và công suất và mức độ khả năng gây ô nhiễm của dự án hoặc mức độ tác động đến môi trường của dự án. Đối với các dự án khác thì có thể không kiểm tra hoặc đề nghị Sở TN&MT tổ chức kiểm tra, gửi báo cáo về cơ quan thẩm định để làm căn cứ cấp giấy phép.

 Giảm bớt các vấn đề cần phải trình Thủ tướng Chính phủ, UBND cấp tỉnh phê duyệt như việc thành lập hội đồng thẩm định, thành lập ban chỉ đạo,… Nên giao cho Bộ trưởng hoặc Giám đốc Sở TN&MT thực hiện. Đối với các kế hoạch, đề án, chiến lược thì nên có sự tích hợp để giảm các văn bản trình Thủ tướng Chính phủ hoặc UBND cấp tỉnh ban hành. Thống kê từ dự thảo cho thấy, các văn bản thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ gồm 16 loại như thành lập Ban chỉ đạo, kế hoạch, công nhận, chủ trương,… (điểm a khoản 1 Điều 5, khoản 1 Điều 5; Điều 7; Điều 17; khoản 2 Điều 18; khoản 2 Điều 19; điểm b khoản 6 Điều 20; điểm c khoản 6 Điều 20; khoản 7 Điều 24; khoản 1 Điều 56; khoản 1 Điều 164; khoản 5 Điều 166; khoản 1 Điều 168; khoản 2 Điều 168; khoản 3 Điều 168; khoản 5 Điều 185), như vậy là khá nhiều, do vậy cần nghiên cứu giảm theo hướng thành lập ban chỉ đạo, hội đồng thẩm định thì giao cho Bộ trưởng thành lập; các loại văn bản nào có thể tích hợp thì cần tích hợp nếu thỏa mãn về thời điểm trình.

           Các biểu mẫu mà cơ quan hành chính sử dụng nội bộ thì đưa vào Thông tư. Các biểu mẫu mà người dân, doanh nghiệp phải khai, chấp hành,… thì đưa vào Nghị định để giảm bớt dung lượng Nghị định đồng thời dễ dàng cho người dân, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước tra cứu, áp dụng.

Về xã hội hóa một số dịch vụ công và nhiệm vụ quản lý nhà nước

 Các việc mà xã hội có thể làm được thì nên xã hội hóa, nhà nước chỉ đóng vai trò giám sát, sử dụng kết quả. Do vậy, việc thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM), thẩm định cấp giấy phép môi trường nên mở ra cơ chế cho phép cơ quan nhà nước thuê tổ chức tư nhân thực hiện việc thẩm định, cơ quan nhà nước tiếp nhận kết quả thẩm định để làm cơ sở họp hội đồng thẩm định hoặc ra quyết định phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo ĐTM. Đối với việc cải tạo, phục hồi môi trường cũng có thể mở ra cơ chế đấu thấu, cho phép các tổ chức có năng lực thực hiện, nhà nước chỉ đóng vai trò nghiệm thu, công bố việc hoàn thành cải tạo, phục hồi môi trường.

 Đối với việc cấp chứng nhận nhãn sinh thái Việt Nam: Bộ TN&MT chỉ xem xét, giao cho tổ chức xã hội có đủ điều kiện để cấp chứng nhận nhãn sinh thái mà không trực tiếp thực hiện việc cấp chứng nhận nhãn sinh thái với các thủ tục tương đối phức tạp như quy định tại Điều 173. Bộ TN&MT quy định cụ thể tiêu chí được cấp chứng nhận nhãn sinh thái; thực hiện việc kiểm tra, giám sát quá trình cấp nhãn sinh thái, thu hồi quyết định giao cấp nhãn sinh thái cho tổ chức xã hội, quyết định thu hồi nhãn sinh thái.

 Về quản lý CTR sinh hoạt (Mục 1 Chương VI):

Về thu phí xử lý CTR sinh hoạt và xác định giá dịch vụ xử lý CTR sinh hoat: Luật BVMT có sự đổi mới căn bản và vượt bậc về cơ chế quản lý CTR sinh hoạt, đó là chuyển đổi từ tư duy nhà nước có trách nhiệm chi trả chủ yếu cho hoạt động thu gom xử lý CTR sinh hoạt sang tư duy người xả rác phải có trách nhiệm chi trả. Do vậy, dự thảo Nghị định cũng như Dự thảo Thông tư cần được thiết kế theo hướng này, cụ thể như sau:

 Để triển khai được việc phân loại rác theo lượng thì Nghị định phải quy định hướng dẫn địa phương phát hành các túi, bán trên thị trường, người dân mua túi đó để đựng CTR sinh hoạt (mua túi này là hình thức để chi trả chi phí thu gom xử lý CTR sinh hoạt). Ngoài ra, dự thảo Nghị định còn thiếu các quy định liên quan đến giá dịch vụ xử lý CTR sinh hoạt. Giá dịch vụ xử lý CTR sinh hoạt phải phải ánh đầy đủ chi phí thu gom, vận chuyển, xử lý CTR sinh hoạt được chứa đựng trong túi, đồng thời phản ánh được việc quản lý phân phối túi đựng CTR sinh hoạt (cần phải chuyển từ tư duy nhà nước làm, nhà nước chi trả sang nhà nước quản lý, hộ gia đình xả thải chi trả, nhà nước hỗ trợ). Thông tư 07/2017/TT-BXD của Bộ Xây dựng mới quy định phương pháp định giá xử lý (chưa bao gồm giá thu gom, vận chuyển và sản xuất, quản lý, phân phối túi đựng rác) nên không thể áp dụng nguyên quy định này cho chính sách mới được, mà phải bổ sung thêm yếu tố thu gom, vận chuyển, lưu trữ và chi phí sản xuất, phát hành túi đựng CTR sinh hoạt. Không thể tách riêng chi phí thu gom, vận chuyển CTR sinh hoạt với chi phí xử lý CTR sinh hoạt được.

 Khoản 1 Điều 66, không nên nên quy định cơ sở sản xuất, dịch vụ, kinh doanh có tổng khối lượng CTR sinh hoạt dưới 300 kg/ngày được lựa chọn hình thức quản lý CTR sinh hoạt như hộ gia đình, cá nhân. Việc lựa chọn hình thức nào là quyền của họ, nếu lựa chọn xử lý theo CTR sinh hoạt thì phải được thu gom, phân loại và để trong túi thu gom CTR sinh hoạt. Nếu chọn xử lý theo chất thải răn công nghiệp thì thực hiện theo quy định phân loại, thu gom theo quy định về quản lý CTR công nghiệp.

 Về trách nhiệm tái chế, xử lý sản phẩm, bao bì thải bỏ của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu (trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất- EPR) (Chương VII):

Cơ chế EPR muốn thực hiện thành công thì phải chú ý đến việc thu gom sản phẩm, bao bì sau sử dụng. Đặc thù thu gom ở Việt Nam là: Người dân chưa có thói quen phân loại CTR sinh hoạt. Việc thu gom sản phẩm, bao bì sau sử dụng trong rác thải sinh hoạt chủ yếu do hệ thống đồng nát thực hiện. Quy định thu phí xử lý CTR sinh hoạt theo khối lượng để thúc đẩy thu gom còn mới, chưa có hướng dẫn cụ thể. Chính quyền địa phương có toàn quyền trong việc thu gom và xử lý, ngân sách nhà nước phân bổ cho hoạt động thu gom xử lý dựa trên đầu người, do Nhà nước chi trả là chủ yếu vì vậy chưa thúc đẩy được việc phân loại chất thải. Xử lý CTR sinh hoạt chủ yếu là chôn lấp.

Do vậy, cần phải có quy định điều chỉnh vấn đề thu gom CTR sinh hoạt ở nước ta hiện nay, cụ thể như sau: Quy định về việc thiết lập các điểm thu gom: Việc thiết lập các điểm thu gom do nhà sản xuất, nhà nhập khẩu hoặc bên thứ ba (PRO) tổ chức thực hiện: Việc thu gom này cần chú ý đến thu gom CTR sinh hoạt có chất thải nguy hại như pin, ắc quy,… để tránh việc áp dụng quy định phức tạp về quản lý chất thải nguy hại, gây khó khăn trong việc thu gom các loại pin, ắc quy, bóng đèn,… Quy định khuyến khích các điểm thu gom tự động đối với một số sản phẩm, bao bì sau sử dụng để người sử dụng có thể đến đó thải bỏ và nhận được điểm thưởng hoặc vé giảm giá khi mua sản phẩm, hàng hóa. Quy định về việc bên thứ ba (PRP) có thể thực hiện việc thu gom, tháo dỡ sản phẩm, bao bì để chuyển giao cho cơ sở tái chế. Quy định trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc phối hợp, tạo điều kiện cho bên thứ ba (PRO) có thể thu gom phế liệu sau khi phân loại tại các hộ gia đình, cá nhân hoặc từ hệ thống thu gom CTR sinh hoạt do địa phương tổ chức. Quy định về khuyến khích nhà sản xuất, nhà nhập khẩu tự thực hiện đặt cọc hoàn trả đối với một số loại sản phẩm, bao bì theo hướng: Các sản phẩm, bao bì được tái sử dụng theo hình thức đặt cọc hoàn trả thì được tính là tái chế 100% khi xác định việc hoàn thành trách nhiệm tái chế theo quy định tại Điều 54 Luật BVMT.

Về lộ trình chuyển đổi loại bỏ các phương tiện giao thông sử dụng nhiên liệu hóa thạch, phương tiện giao thông gây ô nhiễm môi trường (Điều 85)

Lộ trình này nên được quy định theo hướng đưa ra các bước để thực hiện, bao gồm: Điều tra, khảo sát xác định các loại phương tiện thuộc diện phải chuyển đổi, hạn chế sử dụng (theo tiêu chí nhất định); đánh giá, khảo sát các giải pháp khắc phục, phương tiện có khả năng thay thế; xây dựng và thực hiện kế hoạch thay thế. Việc thực hiện nên giao cho UBND cấp tỉnh. Trong đó, đưa ra các tiêu chí về phương tiện giao thông đáp ứng quy chuẩn, phương tiện giao thông thân thiện với môi trường,… không nên xác định là loại phương tiện chạy bằng nhiên liệu gì.

 Về KTTH (Mục 3 Chương XI):

a) Về tiêu chí thực hiện KTTH: Cần bổ sung tiêu chí liên quan đến chuỗi giá trị nhằm bảo đảm tính bền vững và đầy đủ của mô hình KTTH

Về tiêu chí KTTH (Điều 162): Điều 142 Luật BVMT đã quy định tương đối khái quát về mô hình KTTH, bao trùm lên toàn bộ quá trình nghiên cứu, thiết kế, sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, thải bỏ, tái chế, xử lý với mục đích cao nhất là phát triển bền vững, do đó Dự thảo Nghị định cũng nên mạnh dạn quy định các tiêu chí của nền KTTH dựa trên những yếu tố trên (vì vậy sẽ liên quan trực tiếp đến nhiều bộ, ngành), không nên chỉ dừng lại ở quy định như dự thảo là các yếu tố liên quan chủ yếu đến TN&MT.

Đặc điểm quan trọng nhất của nền KTTH chính là chuỗi giá trị (chuỗi các yếu tố) của nền kinh tế là một vòng tròn không có điểm đầu không có điểm cuối, yếu tố này là kết quả của yếu tố trước, đồng thời là tiền đề của yếu tố sau. Nhưng nó không phải chỉ là một chuỗi vòng mà có nhiều chuỗi vòng đính trên nhiều chuỗi vòng lớn; giữa chúng chung một hoặc một vài yếu tố trong chuỗi giá trị. Mỗi chuỗi vòng này chính là một mô hình KTTH áp dụng cho một nhóm các nhà sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.

Vì vậy, các tiêu chí của nền KTTH phải là các tiêu chí liên quan đến quá trình nghiên cứu phát triển, thiết kế, sản xuất (tác động lên yếu tố, giá trị đầu vào để đạt được yếu tố, giá trị mới ở đầu ra), phân phối, tiêu dùng, thải bỏ, thu gom, tái chế, xử lý. Các yếu tố này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành chuỗi giá trị, bảo đảm hạn chế tối đa sự thất thoát nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu, năng lượng ra môi trường, đồng thời có sự tương hỗ nhau để tối ưu hóa sản xuất, nâng cao giá trị của sản phẩm, hàng hóa ở mỗi công đoạn sản xuất nhằm đạt được mục tiêu phát triển bền vững. Để hoàn thiện hơn quy định về mô hình kinh tế thuần hoàn thì cần bổ sung tiêu chí liên quan đến chuỗi giá trị là yếu tố gắn kết các đơn vị sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong nền kinh tế; cùng với các yếu tố về KTTH như quy định của Điều 142 và dự thảo Nghị định sẽ làm đầy đủ hơn mô hình KTTH, cụ thể như sau:

 Nhóm các tiêu chí liên quan đến quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ đơn lẻ, như trong khái niệm được nêu ở khoản 1 Điều 142 Luật và Điều 162 dự thảo Nghị định. Tuy nhiên, các tiêu chí này mới chủ yếu tập trung vào các yếu tố tài nguyên và môi trường hoặc thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ TN&MT mà chưa đề cấp đủ đến các yếu tố liên quan trực tiếp đến sản xuất như thiết kế sản phẩm, thiết kế chất thải; sản xuất sạch hơn, thân thiện với môi trường. Vì vậy, việc quy định các tiêu chí thuộc nhóm này nên phân chia thành từng loại một theo thứ tự gồm: thiết kế, sản xuất, tiêu dùng, thu gom, tái chế:

+ Giai đoạn thiết kế: Sử dụng nguyên liệu thân thiện với môi trường, sử dụng nguyên vật liệu hiệu quả, giảm sử dụng các nguyên liệu nguyên sinh; sản xuất sản phẩm không độc hại, vòng đời dài; dễ dàng bảo trì, bảo dưỡng, thay thế, tái sử dụng, thuận tiện trong thu gom, tái chế;

+ Giai đoạn sản xuất: Sản xuất đáp ứng các quy định về bảo vệ môi trường, tuân thủ các quy chuẩn môi trường về quản lý chất thải; giảm thiểu tác động xấu đến môi trường; tăng dần sử dụng các nguyên liệu tái chế, nguyên liệu thân thiện với môi trường

+ Giai đoạn tiêu dùng: Dịch vụ sau khi mua phát triển, thực hiện việc bảo trì, bảo dưỡng, bảo hành, sửa chữa phù hợp bảo đảm kéo dài tuổi thọ của sản phẩm.

+ Giai đoạn thu gom, tái sản xuất: Nhà sản xuất thực hiện trách nhiệm quay vòng sản phẩm, bao bì để tiếp tục sử dụng trong quá trình sản xuất hoặc hỗ trợ tái sử dụng;

+ Giai đoạn thu gom, tái chế: Nhà sản xuất, nhà nhập khẩu có trách nhiệm thu gom, tái chế, xử lý đối với sản phẩm, hàng hóa, bao bì sau sử dụng để thực hiện tuần hoàn tài nguyên, tạo ra nguyên liệu từ phế liệu cho quá trình sản xuất tiếp theo; thực hiện việc thu hồi nhiên liệu, năng lượng. Nhóm tiêu chí liên quan đến chuỗi giá trị, nhóm tiêu chí này áp dụng để đánh giá sự liên kết, sự tương tác, tương hỗ lẫn nhau giữa các quy trình, công đoạn sản xuất giữa các đơn vị trong nền kinh tế;

+ Tiêu chí về sự liên kết giữa nhà cung ứng nguyên vật liệu, năng lượng, nhà sản xuất, phân phối, bảo đảm tối ưu hóa chi phí sản xuất, kinh doanh, phân phối

+ Tiêu chí về sự tương hỗ trong sản xuất, làm gia tăng giá trị của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ tối ưu quá sản xuất.

b) Về lộ trình thực hiện KTTH.

KTTH phải thực hiện đồng bộ trong từng mô hình của nó (như đã đề cập ở trên) do đó, cần phải xác định được các mô hình nhỏ, cơ bản để ưu tiên thực hiện trước, tiếp theo sẽ đến các mô hình lớn hơn. Vậy mô hình nhỏ nhất cần phát triển trước là gì? Vấn đề này nên để cho bộ, ngành tự xác định. Đối với ngành TN&MT thì mô hình đó là thu gom, vận chuyển, tái chế, xử lý chất thải, phế liệu (tức là phát triển chuỗi giá trị tái chế, tái sử dụng chất thải, coi chất thải là tài nguyên mà Chương VI và Chương VII đã quy định)… khi các ngành đã phát triển đầy đủ các mô hình KTTH trong ngành mình thì chúng tự khắc có sự liên kết hỗ trợ với các mô hình của ngành khác để hoàn thiện mô hình lớn hơn và cuối cùng là hình thành nền KTTH.

Do đó, giao cho các Bộ xác định chuỗi giá trị để phát triển KTTH theo các tiêu chí quy định tại Điều 162 (đã được sửa đổi theo góp ý ở trên). Bộ TN&MT, Bộ Công Thương có trách nhiệm xác định các yếu tố để phát triển KTTH bảo đảm sự liên kết với các yếu tố KTTH của các ngành khác.

 Về thanh tra, kiểm tra (Mục 2 Chương XII): Quy định về thanh tra thường xuyên cần phải trả lời được các câu hỏi sau - Thanh tra thường xuyên hoạt động theo phương thức nào? Vào thanh tra nhiều lần hơn? Hay có mặt thường xuyên tại đối tượng bị thanh tra? Có hoạt động đi tuần hay không? Đang trong thời hạn thanh tra thường xuyên (đã mở thủ tục thanh tra thường xuyên và chưa kết thúc) thì có thể đột xuất tiến hành thanh tra mà không cần thông báo hay không?.  

Quy định về kiểm tra: Để tránh kiểm tra tùy tiện, thì phải bảo đảm chỉ kiểm tra đột xuất khi có dấu hiệu vi phạm theo đúng quy định tại điểm a khoản 3 Điều 160 Luật BVMT, không được lập đoàn kiểm tra định kỳ hoặc theo kế hoạch hoặc kiểm tra việc tuân thủ pháp luật như dự thảo đang quy đhhh. Phải quy định rõ dấu hiệu vi phạm là gì: Số liệu quan trắc tự động cho thấy vi phạm quy chuẩn trong xả thải; được tin báo của công dân đủ năng lực hành vi dân sự đối với các dấu hiệu về sự thay đổi theo chiều hướng ONMT; căn cứ vào các chỉ thị môi trường như cây cối bị chết hàng loạt, động vật bị nhiễm bệnh hàng loạt; sức khỏe của người dân bị suy giảm, xuất hiện sự phát triển đột biến về số lượng nhiễm bệnh ở con người,..

 Minh Thi