Một số khó khăn, vướng mắc trong đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm biển và hải đảo

Thứ ba, 14/1/2025, 16:27 (GMT+7)
logo Khoản 2 Điều 50 Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đạo quy định “Bộ Tài nguyên và Môi trường, bộ, cơ quan ngang bộ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm biển và hải đảo; công khai kết quả đánh giá trên trang thông tin điện tử của cơ quan mình”. Tuy nhiên, do chưa có quy định cụ thể về việc thực hiện hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo đối với các bộ và cơ quan ngang bộ khác (Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp...) nên việc thực hiện đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ONMT biển và hải đảo chủ yếu chỉ được thực hiện bởi Bộ Tài nguyên và Môi trường và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển.

Một số khó khăn, vướng mắc trong đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm biển và hải đảo

Thiếu căn cứ, tiêu chí đánh giá

Một số nội dung thuộc phạm vi đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường (ONMT) biển đưa vào tiêu chí đánh giá tại địa phương hàng năm đều phải thực hiện sẽ khó khăn cho địa phương do liên quan đến nguồn lực còn khó khăn (về con người, về kinh phí thực hiện), một số hoạt động kiểm soát ONMT biển và hải đảo chưa được quy định, hướng dẫn cụ thể (Điều tra, thống kê, phân loại, đánh giá các nguồn thải từ đất liền, từ các hoạt động trên biển và hải đảo; tình trạng ONMT biển và hải đảo; xây dựng kế hoạch phòng ngừa ô nhiễm, suy thoái môi trường, các hệ sinh thái biển và hải đảo, kế hoạch ứng phó, khắc phục sự cố môi trường biển,...).

Điểm b khoản 1 Điều 11 Thông tư số 27/2016/TT-BTNMT quy định một trong những thành phần của hồ sơ đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ONMT biển và hải đảo là “Các tài liệu chứng minh kết quả đạt được đối với các nội dung kiểm soát ONMT biển và hải đảo, tiêu chí, tiêu chí thành phần”. Tuy nhiên, không quy định cụ thể, rõ ràng về yêu cầu tài liệu chứng minh phải bao gồm hình thức, nội dung gì nên khó thực hiện.

Điểm h khoản 4 Điều 5 Thông tư số 27/2016/TT-BTNMT quy định về “Tiêu chí 4.8: tổ chức kiểm tra, đánh giá hoạt động hệ thống quan trắc tự động việc xả thải trên biển và hải đảo của các đối tượng theo quy định của Luật BVMT 2014 và Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ quy định về quản lý chất thải và phế liệu”. Tuy nhiên, Luật BVMT 2014 đã được thay thế bởi Luật BVMT 2020 và Nghị định số 38/2015/NĐ-CP đã được bãi bỏ, do đó không có căn cứ để thực hiện tiêu chí trên.

Phụ lục 01 Thông tư số 27/2016/TT-BTNMT quy định về Bộ chỉ số, nội dung, tiêu chí, tiêu chí thành phần đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ONMT biển và hải đảo và Phụ lục 02 Thông tư số 27/2016/TT- BTNMT quy định về cách tính điểm của tiêu chí, tiêu chí thành phần có một số nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, không phù hợp với thực tiễn với các hoạt động kiểm soát ONMT biển và hải đảo hiện tại đang được triển khai tại các địa phương.

Ứng phó sự cố môi trường biển chưa có một mô hình chuẩn

Điều 51 Luật TN, MT biển và hải đảo quy định “Nội dung báo cáo, kỳ lập báo cáo, thẩm quyền và trách nhiệm lập báo cáo thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường”. Tuy nhiên, qua quá trình triển khai thực tế các năm vừa qua cho thấy, Báo cáo hiện trạng môi trường và báo cáo hiện trạng môi trường biển có những sự khác biệt cơ bản về phạm vi, mục tiêu, và nội dung. Do đó, việc áp dụng các quy định về nội dung báo cáo cũng như kỹ thuật lập báo cáo còn chưa phù hợp và sát với thực tiễn. Đề xuất trong giai đoạn tới cần có những quy định cụ thể hơn cho nội dung cũng như kỹ thuật lập Báo cáo hiện trạng môi trường biển và hải đảo quốc gia 5 năm một lần và báo cáo chuyên đề hằng năm.

Các tư liệu hiện có về chất lượng môi trường biển của Việt Nam hiện đang phân tán trong các đơn vị khác nhau, không tập trung và rất khó để các đơn vị có nhu cầu sử dụng tham khảo. 

Chưa xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thiên tai do khí tượng thủy văn, quá trình địa chất, sự cố tràn dầu, ONMT và gây tổn thương tài nguyên môi trường biển và cơ sở hạ tầng KT-XH đới ven biển và biển nông ven bờ Việt Nam.

Chưa xây dựng được nguyên tắc, quan điểm về quản lý, bảo vệ tài nguyên môi trường, phòng tránh giảm nhẹ thiên tai, phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường, hạn chế ô nhiễm theo hướng phát triển bền vững, đảm bảo QP-AN.

Hiện ứng phó sự cố môi trường biển, sự cố tràn dầu trên biển vẫn chưa có được một mô hình chuẩn, tạo cơ sở để kiện toàn chức năng nhiệm vụ và cơ chế phối hợp thực hiện các nhiệm vụ liên quan.

Mạng lưới các trạm quan trắc môi trưởng biển chưa hiện đại

Về hoạt động quan trắc giám sát môi trường biển: Mạng lưới các trạm quan trắc môi trường biển chủ yếu phục vụ cho việc thu/nhận số liệu làm đầu vào cho các mô hình dự báo khí tượng thuỷ văn như nước dâng do bão, sóng biển hoặc ở dạng cung cấp số liệu mang tính dịch vụ đơn lẻ cho một số đề tài, dự án..., vì vậy, chưa đáp ứng được nhu cầu phục vụ phát triển kinh tế biển trong giai đoạn hiện nay.

Cục Biển và Hải đảo Việt Nam hiện nay chưa nắm bắt, quản lý được số liệu quan trắc về chất lượng môi trường biển (nước biển ven bờ, xa bờ, trầm tích, hệ sinh thái đa dạng sinh học), dẫn đến còn gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý môi trường biển hoặc đề ra các giải pháp xử lý sớm, kịp thời đối với trường hợp xảy ra các sự cố liên quan đến môi trường biển trên phạm vi cả nước. Bên cạnh đó, chưa xác định rõ tính đa ngành, đa lĩnh vực trong hoạt động ứng phó, khắc phục sự cố tràn dầu.

Vì vậy, cơ sở pháp lý để ban hành khung pháp lý cho các hoạt động ứng phó, khắc phục SCTD nói chung và đặc thù áp dụng trên biển, nơi có nguy cơ lan rộng và ảnh hưởng rất lớn khi xảy ra SCTD dựa theo rất nhiều luật cơ bản và chuyên ngành khác nhau về bảo vệ môi trường, về hàng hải, giao thông thủy nội địa, về dân sự, hình sự, kinh tế đến áp dụng các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập cũng như vận dụng các thông lệ quốc tế khác do đối tượng gây ra SCTD, tham gia ứng phó, khắc phục SCTD rất đa dạng cả đối tượng trong nước và nước ngoài.

Việc triển khai thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển đã được triển khai theo quy định của Luật TN, MT biển và hải đảo và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai còn có một số bất cập: Chậm trễ trong phê duyệt và triển khai, khoản 2 Điều 79 Luật TN, MT biển và hải đảo quy định “Trong thời hạn 18 tháng kể từ thời điểm Luật này có hiệu lực thi hành, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển có trách nhiệm thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển thuộc phạm vi quản lý”. Tuy nhiên, tại nhiều địa phương việc hoàn thành phê duyệt danh mục và ranh giới hành lang bảo vệ bờ biển chưa đáp ứng được quy định nêu trên. Đến nay, chỉ có một số ít tỉnh thành đã hoàn thành việc cắm mốc giới hành lang bảo vệ bờ biển.

Thiếu cơ chế phối hợp: Khoản 3 Điều 34 và khoản 1 Điều 38 Nghị định số 40/2016/NĐ-CP quy định UBND tỉnh có biển cần lấy ý kiến của Bộ Tài nguyên và Môi trường về dự thảo Danh mục các khu vực phải thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển và dự thảo Ranh giới hành lang bảo vệ bờ biển trước khi phê duyệt. Việc thiếu cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trung ương và địa phương dẫn đến việc thiếu thông tin đầy đủ để nhận xét và góp ý cho các dự án thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển tại các địa phương phù hợp với thực tiễn.

Nhiều vướng mắc trong thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển

Theo quy định của Nghị định số 40/2016/NĐ-CP, đường ranh giới trong của hành lang bảo vệ bờ biển được xác định thông qua tính toán bề rộng hành lang bảo vệ bờ biển tại các mặt cắt đặc trưng. Đối với một số địa hình ven biển đặc biệt, các mặt cắt đặc trưng chưa phản ánh hết được hình thái địa hình ven biển, dẫn đến việc ranh giới trong của hành lang bảo vệ bờ biển (khi nối các điểm) có thể chồng lấn với các đối tượng không thuộc quy định của hành lang bảo vệ bờ biển (nhà dân, các ao, hồ, đầm của các cơ sở nuôi trồng thủy sản ven biển, các công trình dân sinh hoặc công cộng,...)

Cũng tại Nghị định số 40/2016/NĐ-CP, chưa có các quy định cụ thể về chiều rộng tự nhiên của các khu vực thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển, dẫn đến khó khăn trong việc xác định bề rộng và ranh giới trong của hành lang bảo vệ bờ biển. 

Tại các văn bản quy phạm pháp luật về việc thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển chưa có các quy định cụ thể về việc xử lý đối với các công trình dân sinh (đã tồn tại trước thời điểm Luật TN, MT biển và hải đảo có hiệu lực hoặc trước thời điểm triển khai thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển) nằm trong hoặc tiếp giáp với phạm vi hành lang bảo vệ bờ biển.

Trong hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về TN, MT biển và hải đảo; xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực TN, MT biển và hải đảo. Trước tình hình thực thi pháp luật trên biển và hải đảo diễn biến phức tạp, vi phạm pháp luật về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo có dấu hiệu gia tăng trong thời gian gần đây các quy định về xử lý vi phạm hành chính hiện hành chưa bao quát hết các hành vi vi phạm pháp luật về TN, MT biển và hải đảo (như vi phạm về hành lang bảo vệ bờ biển, quản lý rác đại dương,..). Do đó, cần thiết ban hành quy định riêng về chế tài xử lý các vi phạm hành chính trong lĩnh vực TN, MT biển và hải đảo để đảm bảo tính chất răn đe, tính nghiêm minh của pháp luật với lĩnh vực này.

Nghị định số 37/2022/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu; quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia; trên các vùng biển, đảo và thềm lục địa của nước Việt Nam đã quy định chế tài xử phạt cho nội dung giao và sử dụng khu vực biển, nhận chìm ở biển. Nghị định ra đời đã tạo hành lang pháp lý cho việc thực thi pháp luật đối với các hành vi vi phạm về giao và sử dụng khu vực biển, nhận chìm. Tuy nhiên, trong Nghị định này không quy định thẩm quyền lập biên bản xử lý vi phạm hành chính của cán bộ, công chức đang thi hành công vụ và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Cục trưởng. Điều này dẫn đến công tác kiểm tra về lĩnh vực TN, MT biển và hải đảo của Cục Biển và Hải đảo Việt Nam chưa thực sự chủ động, phát huy hiệu quả.

VÂN THANH
Trung tâm Quy hoạch và Điều tra Tài nguyên, Môi trường biển khu vực phía Bắc
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 20 (Kỳ 2 tháng 10) năm 2024