
Yêu cầu và động lực “xanh hóa” ngành dệt may
Theo tổ chức WWF-Việt Nam và Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), khái niệm xanh hóa ngành Dệt May mang ý nghĩa là ngành sẽ hoạt động theo hướng sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên và giảm chất thải, loại bỏ các chất gây lo ngại và loại trừ phát sinh vi sợi; biến đổi cách thức thiết kế quần áo, bán và sử dụng sao cho có thể giảm thải ra tự nhiên; cải thiện triệt để khả năng tái chế bằng cách thay đổi thiết kế, thu hồi và tái sản xuất; hướng tới sử dụng nguyên nhiên liệu tái tạo. Xanh hóa ngành dệt may không chỉ là vấn đề công nghệ. Xét về lâu dài, sự tăng trưởng có nghĩa là tính tới sự cân bằng các yếu tố môi trường, KT-XH.
Xét về môi trường, tác động của biến đối khí hậu có thể gây ra sự gián đoạn nguồn cung năng lượng, nước và các vật liệu quan trọng. Chính phủ đã có cam kết quốc tế về cắt giảm khí nhà kính và thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc. Xanh hóa ngành Dệt may sẽ giúp giảm sự quan ngại của cơ quan quản lý địa phương khi phê duyệt các dự án khu công nghiệp dệt may chuyên biệt nhờ quy hoạch đã tính tới bảo đảm nghiêm ngặt tính bền vững về môi trường, đặc biệt là về vấn đề tiêu hao nước và xả nước thải.
Về kinh tế, giá nhân công thấp không còn là ưu thế cạnh tranh của ngành dệt may. Việt Nam trở thành nhà cung ứng bền vững trong chuỗi cung ứng chính là yếu tố quan trọng để thu hút khách hàng. Yêu cầu từ người mua về BVMT ngày càng tăng. Sản xuất nguyên liệu cho ngành may theo hướng bền vững là điều thiết yếu để tận dụng các ưu đãi từ các Hiệp định thương mại. Các nhà sản xuất dệt may “xanh” sẽ thu hút được đơn hàng ổn định ở mức giá hợp lý. Chủ động ứng dụng BATs/BEPs sẽ giúp nhà sản xuất, tiết kiệm chi phí sản xuất do giảm tiêu hao năng lượng, nước, hóa chất và giảm chi phí xử lý chất thải để tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường, cũng như tránh được nguy cơ bị thu hồi giấy phép kinh doanh nếu không thể tuân thủ quy định.
Về xã hội, nhận thức của cộng đồng và người tiêu dùng về các vấn đề môi trường ngày càng được nâng cao. Các chính sách về trách nhiệm xã hội và môi trường, điều kiện làm việc tốt hơn sẽ thu hút và giữ chân được lực lượng lao động trẻ tài năng. Người tiêu dùng sẵn sàng chi trả ở mức cao hơn để mua các sản phẩm có trách nhiệm xã hội và môi trường. Các nhãn hàng công khai nhiều hơn thông tin bền vững và coi đó là cách để tăng cường danh tiếng của doanh nghiệp và thuyết phục người tiêu dùng nhằm mở rộng thị phần.
Đại dịch Covid-19 đang gây nên những tác động to lớn về KT-XH trên toàn thế giới. Ngành may mặc đã chứng kiến sụt giảm doanh số bán hàng ngay lập tức. Một cuộc điều tra người tiêu dùng ở quy mô toàn cầu của tập đoàn McKinsey tháng 4/2020 chỉ ra rằng, 60% người tiêu dùng cắt giảm chi tiêu cho thời trang là xu hướng trong ngắn và trung hạn. Về dài hạn, 65% người tiêu dùng chuyển từ thời trang nhanh sang thời trang cơ bản và lâu bền; và 67% quan tâm nhiều về tính bền vững môi trường và xã hội của các nhãn hàng thời trang. Sức ép này từ người tiêu dùng sẽ là lực đẩy để các nhãn hàng cam kết và hành động cải thiện tính bền vững trong suốt chuỗi cung ứng của họ. Hiện nay, bên cạnh các yêu cầu pháp lý về hoạt động môi trường mà doanh nghiệp sản xuất trong ngành dệt may phải tuân thủ như các luật và các văn bản quy định tương ứng, đã có một số văn bản QPPL khác hướng dẫn, định hướng và khuyến khích hỗ trợ ngành bắt đầu chuyển đổi xanh.
Xu hướng và triển vọng chuyển đổi xanh
Việt Nam đang tham gia các Hiệp định thương mại tự do. Các Hiệp định mang đến các điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp để mở rộng thị trường xuất khẩu. Trong đó, việc ưu đãi thuế sẽ dành cho hàng hóa Việt Nam có nguồn gốc phù hợp được chứng nhận, sản xuất bền vững và minh bạch thông tin. Hiện nay, Việt Nam đã mở cửa thị trường cho các sản phẩm chất lượng cao, đa dạng từ các quốc gia đối tác. Do vậy, áp lực cạnh tranh bình đẳng sẽ dần tăng lên để cạnh tranh với các sản phẩm và công ty nước ngoài. Do đó, để tận dụng tối đa các ưu đãi thương mại các doanh nghiệp cần phải đổi mới phương thức hoạt động của mình.
Các tiếp cận chiến lược hướng đến chuyển đổi xanh bao gồm, tiếp cận chuỗi cung ứng xanh sử dụng hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên, giảm chi phí sản xuất song hành với giảm chi phí khai thác tài nguyên (cho nguyên liệu, nước, năng lượng và hóa chất) và phát thải nguy hại vào môi trường. Một số phương pháp đã được kiểm chứng bao gồm hiệu quả tài nguyên và sản xuất sạch hơn, giảm thiểu chất thải, cộng sinh công nghiệp sẽ mang lại hiệu quả khi áp dụng liên tục. Các thực hành kinh tế tuần hoàn hướng đến một nền kinh tế dệt may tuần hoàn mô tả một hệ thống công nghiệp nhằm loại bỏ các chất gây quan ngại và phát thải vi sợi; biến đổi cách thức thiết kế quần áo, bán và sử dụng sao cho có thể giảm thải ra tự nhiên; cải thiện triệt để khả năng tái chế bằng cách thay đổi thiết kế, thu gom và tái sản xuất; và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, hướng tới sử dụng nguyên liệu tái tạo. Thiết kế sản phẩm xanh và nhãn sinh thái cho các sản phẩm dệt và may mặc thiết kế sản phẩm xanh, nhãn sinh thái cho hàng dệt may có thể thực hiện được trong toàn bộ quá trình sản xuất, bắt đầu từ các vật liệu tự nhiên sẽ đi vào sản phẩm và trong thiết kế có sử dụng sợi hữu cơ và thuốc nhuộm tự nhiên, vật liệu tái chế, sử dụng tối thiểu hóa chất và triệt để loại bỏ các hóa chất độc hại.
Trong chuỗi cung ứng xanh còn hướng đến kho vận xanh. Mục tiêu của kho vận (logistics) xanh là vận chuyển và lưu trữ nguyên liệu và sản phẩm với chi phí thấp nhất có thể trong khi vẫn duy trì các tiêu chuẩn cao nhất và giảm thiểu tác động đến môi trường trong quá trình này. Kho vận xanh bao hàm sự đổi mới trong tất cả các bước của chuỗi cung ứng từ khi hình thành sản phẩm đến việc sử dụng sản phẩm cuối cùng. Trong quá trình hình thành các cụm công nghiệp còn tuân thủ pháp luật về môi trường quốc tế và quốc gia, có thể ứng dụng công nghệ 4.0 trong sản xuất sợi và giám sát chất lượng
Hiện nay, các doanh nghiệp hướng đến xây dựng nhân lực với tư duy phát triển bền vững. Nhân lực chưa tương xứng là một trong những trở ngại chính cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thúc đẩy ngành tăng trưởng theo hướng xanh và bền vững. Do đó, phát triển nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quyết định của tầm nhìn xanh. Các mục tiêu nhiệm vụ quan trọng được đề xuất (nhưng không bị hạn chế bởi những điểm nêu dưới đây) bao gồm: Tăng cường số lượng để đáp ứng nhu cầu về nhân sự quản lý và giám sát chất lượng cao của doanh nghiệp - có năng lực áp dụng các mô hình quản lý hiện đại như sản xuất tinh gọn, quản lý “kịp thời”, hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp, hệ thống quản lý năng lượng và môi trường,... Tăng cường tỷ lệ cán bộ kỹ thuật chuyên môn và công nhân lành nghề được đào tạo chuyên sâu về các chủ đề “xanh”, BATs và BEPs, có thể áp dụng công nghệ 4.0 vào quy trình sản xuất để tự động hóa và số hóa quy trình sản xuất để nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Thiết lập các hoạt động đào tạo phát triển kỹ năng thông qua các lớp giáo dục nghề nghiệp và đào tạo kỹ thuật, và hỗ trợ các công ty thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp nhằm nâng cao kiến thức và năng lực của nhân viên về sản xuất bền vững. Thúc đẩy các nguồn tài chính xanh trong nước và quốc tế để hỗ trợ đầu tư xanh. Hệ thống tài chính đưa ra càng nhiều điều kiện tín dụng thuận lợi (như lãi suất ưu đãi, hỗ trợ tiền ký quỹ, thời gian ân hạn) thì các doanh nghiệp dệt may càng thực hiện được nhiều dự án đầu tư xanh. Điều này sẽ thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh ngay từ cấp công ty. Một số nhiệm vụ chính (nhưng không bị giới hạn bởi những điểm nêu dưới đây) trong thúc đẩy đầu tư xanh bao gồm: Đa dạng hóa các nguồn hỗ trợ tài chính để thực hiện các dự án BVMT. Tăng nguồn quỹ trong nước cho các dự án đầu tư được thiết kế theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa và sản xuất thân thiện với môi trường. Tăng giá trị hỗ trợ tài chính hàng năm từ các nguồn trong nước và quốc tế để các doanh nghiệp đầu tư thực hiện các dự án, chương trình phát triển bền vững, xanh hóa ngành Dệt may Việt Nam.
Trong phạm vi rộng hơn và dài hạn, ngành Dệt may đã chấp nhận ý tưởng rằng để đạt được tăng trưởng bền vững, điều cần thiết là phải mở rộng sản xuất của mình sang bán thiết kế gốc và sản xuất thương hiệu gốc. Ngành Ngân hàng Việt Nam đang thực hiện các chính sách ngân hàng xanh, tín dụng xanh và tăng cường tài trợ cho các dự án xanh trong ngành dệt may. Công nghệ trong ngành liên tục đổi mới. Công nghệ thông tin về thu nhận và quản lý dữ liệu đã giúp cho quá trình nhuộm dần ít phụ thuộc vào kỹ năng của người lập đơn công nghệ, ổn định chất lượng mẻ nhuộm cũng như tăng cường tỷ lệ RFT (righ-first-time, tạm dịch là đúng ngay từ đầu). Nhiều nhà sản xuất đã đạt được tỉ lệ này ở mức 95-98% thay vì 70-80% khi không ứng dụng công nghệ thông tin. Với hoạt động của rô-bốt, việc trải và cắt vải giúp giảm nhân công tới 80% và tiết kiệm vật liệu 3%. Các tổ chức hợp tác phát triển quốc tế đang có những hỗ trợ mạnh mẽ cho ngành cả về kỹ thuật, tài chính, và chia sẻ thông tin và kiến thức. Một số chương trình đáng chú ý có thể kể tới bao gồm: Dự án FABRIC của GIZ nhằm mục đích thúc đẩy sản xuất bền vững trong ngành, đặc biệt chú trọng tới các công nghệ và quản lý quá trình nhuộm, công nghệ và thực hành tốt trong xử lý nước thải, và quản lý sản xuất nói chung. Nhóm Tài nguyên nước năm 2030 thuộc World Bank hoạt động ở Việt Nam từ năm 2016. Tổ công tác ngành dệt may thuộc nhóm được thành lập cuối năm 2019, do VEA,VITAS và MPI đồng chủ tịch, với mục tiêu xúc tiến xử lý tái chế và tái sử dụng nước thải ở các nhà máy trong khu công nghiệp nhằm góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước cho quốc gia. Chương trình “Vươn tới đỉnh cao ở Việt Nam” thuộc Sáng kiến Thương mại Bền vững của IDH là một nỗ lực cộng tác giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp dệt may và da giày, nhãn hàng toàn cầu, tổ chức quốc tế và tổ chức xã hội dân sự để cùng thúc đẩy áp dụng các thực hành sản xuất bền vững tại Việt Nam.
Ngành Dệt may đang là một trong những ngành xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam từ những năm gần đây. Ngành này cung cấp việc làm ổn định cho một tỷ lệ lớn lực lượng lao động hiện có. Trong bối cảnh hiện nay, ngành Dệt may cần có những bước đi mạnh mẽ theo hướng tự chủ hơn trong nguồn cung nguyên liệu. Cách duy nhất để thiết lập một lộ trình phát triển bền vững cho sản xuất vải và may mặc là thực sự tuân thủ các nguyên tắc và thực hành tốt nhất về BVMT, xanh hóa sản xuất, tiết kiệm tài nguyên không thể tái tạo như nước, năng lượng, sử dụng vật liệu tái chế và quản lý hóa chất hiệu quả.
ThS. TRẦN THỊ LAN
Bộ Công Thương