Nghiên cứu khoa học biển vì mục tiêu phát triển bền vững

Thứ năm, 6/1/2022, 15:22 (GMT+7)
logo Sự nghiệp khoa học và công nghệ biển nước ta có phát triển được hay không phụ thuộc vào chính các nhà khoa học và các cơ quan nghiên cứu khoa học và công nghệ biển. Thực tiễn đặt ra là phải tăng cường năng lực, đầu tư các nguồn lực để khoa học và công nghệ biển có đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển đất nước.

Nghiên cứu khoa học biển vì mục tiêu phát triển bền vững

Ghi nhận từ thực tế

Khoa học biển của nước ta có từ năm 1923, khi ấy là Viện Hải dương học tại Nha Trang. Tiếp đó, năm 1959, ở miền Bắc, Đảng và Nhà nước đã thành lập Đội điều tra Hải dương, lần lượt đổi nhiều tên gọi và nay là Viện TN&MT biển; đồng thời thành lập Viện Địa chất - Địa Vật lý biển (đều thuộc Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam). Năm 2008, cùng với việc thành lập Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Viện Nghiên cứu Quản lý biển và hải đảo cũng ra đời (nay là Viện Nghiên cứu Biển và Hải đảo) trực thuộc Tổng cục này. Chức năng bao trùm của Viện là chuyển thể các tư liệu, thông tin khoa học thành thông tin quản lý phục vụ trực tiếp quá trình hoạch định chính sách,...

Nguồn nhân lực phục vụ cho phát triển kinh tế biển cũng được tăng cường, nhiều nhà khoa học đã được đào tạo bài bản ở các nước tiên tiến trên thế giới và trở về nước làm việc, cống hiến. Tuy nhiên, so với thực tế cần, thì lực lượng này còn mỏng, lại phân tán. Do vậy, những công trình nghiên cứu lên quan đến biển mang tính chuyên sâu đến TN&MT biển, có tầm vĩ mô, chiến lược còn ít, mới chỉ dừng nhiều ở các kết quả nghiên cứu ở vùng biển ven bờ (cửa sông, đầm, phá, biển nông,...). Trong khi điều cần hiện nay thì hạn chế và thiếu là các kết quả nghiên cứu khoa học về thực trạng, diễn biến môi trường và tài nguyên biển,... ở quy mô toàn Biển Đông.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Đầu tiên là tiềm lực và đầu tư tài chính cho nghiên cứu KH&CN biển của nước ta còn hạn chế, chưa tập trung và kế thừa, các lực lượng nghiên cứu biển phân tán, thiếu cơ chế phối hợp hiệu quả. Ngoài các Viện nghiên cứu nói trên, nhiều bộ, ngành, trường đại học có liên quan đều lập các viện, trung tâm nghiên cứu biển, đảo.

Thứ hai, tình hình Biển Đông luôn phức tạp, khó lường làm cản trở và ảnh hưởng đến hoạt động nghiên cứu và hợp tác quốc tế về biển. Hoạt động nghiên cứu khoa học biển của nước ta thường tập trung ở vùng biển nông ven bờ và dải ven biển thông qua các chương trình KH&CN biển cấp nhà nước, các đề tài, dự án nghiên cứu của các ngành, lĩnh vực kinh tế biển và các dự án hợp tác quốc tế.

Thứ ba, đầu tư cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, tàu điều tra nghiên cứu,… của nước ta còn rất hạn chế. Đến nay, lực lượng nghiên cứu biển của Việt Nam vẫn chưa có tàu nghiên cứu để đáp ứng nhu cầu thực tiễn cần khi ra biển. Nhiều chương trình dự án nghiên cứu phải thuê tàu của hải quân, cảnh sát biển nên chi phí rất tốn kém. Thậm chí, điều tra vùng ven bờ (cận duyên) cũng phải thuê của ngư dân, nên việc đi ra vùng biển xa hơn rất hạn chế. Tàu nghiên cứu biển, đại dương phải là tàu chuyên dụng, lắp ráp sẵn những máy móc hiện đại, tự động,… mới bảo đảm được độ tin cậy, chính xác của các phép đo tại hiện trường. Những đơn vị nghiên cứu biển thường phải thuê tàu của ngư dân, sau đó lắp ráp thiết bị một cách thủ công nên độ tin cậy của các số liệu ít nhiều có phần bị hạn chế, ảnh hưởng.

Thứ tư là, trình độ ngoại ngữ của một số cán bộ làm công tác điều tra, nghiên cứu còn hạn chế, các phương pháp và kỹ thuật áp dụng chưa tiên tiến đã ảnh hưởng đến khả năng công bố quốc tế các kết quả nghiên cứu của Việt Nam.

Vì mục tiêu phát triển bền vững, cần thúc đẩy khoa học

Tháng 10/2018, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết 36 - NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nghị quyết xác định 3 khâu đột phá, trong đó khâu đột phá thứ 2 là: Phát triển KH&CN và đào tạo nguồn nhân lực biển chất lượng cao, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, tận dụng thành tựu KH&CN tiên tiến, khoa học, công nghệ mới, thu hút chuyên gia, nhà khoa học hàng đầu, nhân lực chất lượng cao.

Về giải pháp, cần thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, ứng dụng các thành tựu KH&CN tiên tiến; đẩy mạnh nghiên cứu, xác lập luận cứ khoa học cho việc hoạch định, hoàn thiện chính sách, pháp luật về phát triển bền vững kinh tế biển.

Ưu tiên đầu tư cho công tác điều tra cơ bản, nghiên cứu KH&CN, đào tạo nguồn nhân lực biển; hình thành các trung tâm nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học biển, khai thác đáy biển sâu, công nghệ vũ trụ trong giám sát biển đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả chương trình trọng điểm quốc gia về KH&CN biển và các chương trình, đề án cấp ngành liên quan; mở rộng nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong điều tra, nghiên cứu ở các vùng biển quốc gia. Đầu tư đội tàu nghiên cứu biển tiên tiến, thiết bị tự động khảo sát, đo đạc ngầm dưới biển có khả năng nghiên cứu ở các vùng biển sâu,…

Củng cố lại đội ngũ nguồn nhân lực ở các cơ quan và các nhà khoa học biển có trình độ cấp khu vực, có kỹ năng nghiên cứu biển; Nhà nước đầu tư tập trung cho các đơn vị nghiên cứu đủ năng lực (không theo chức năng, nhiệm vụ được giao trên giấy), tránh dàn trải như hiện nay.

Chính phủ cần ban hành cơ chế phối hợp liên ngành hiệu quả, phân công hợp lý, kế thừa và hỗ trợ nhau thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước đặt hàng, có sản phẩm và địa chỉ ứng dụng cụ thể. Nhà nước cũng tạo cơ chế thuận lợi hơn để mở rộng và tăng cường hợp tác quốc tế về biển.

Một số đề xuất về chính sách

Hiện nay, nước ta vẫn duy trì thường xuyên công tác nghiên cứu khoa học biển. Tuy nhiên, nguồn kinh phí được cấp và việc lựa chọn vấn đề ưu tiên nghiên cứu còn rất nhiều việc phải xem xét, cần đồng bộ. Tất cả đề tài nghiên cứu biển sử dụng ngân sách nhà nước cần yêu cầu bắt buộc phải có địa chỉ ứng dụng với các sản phẩm cụ thể; phải có bài báo công bố quốc tế. Nếu không đạt được yêu cầu này cần có chế tài (chẳng hạn thu hồi hoặc cắt giảm kinh phí) xử lý.

Công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển, đảo được triển khai chủ động, toàn diện; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền lợi chính đáng của quốc gia - dân tộc, nâng cao vị thế đất nước; mở rộng, phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác và tin cậy chính trị với các nước láng giềng, các đối tác lớn, quan trọng; chủ động, tích cực giải quyết và xử lý các tranh chấp, bất đồng trên biển. Hợp tác quốc tế được triển khai tích cực ở các cấp, các ngành với nhiều đối tác, đa dạng về hình thức và trải rộng trên các lĩnh vực, góp phần nâng cao năng lực quản lý, khai thác, sử dụng biển, BVMT và phòng chống thiên tai. Tuy nhiên, KH&CN biển rất cần tăng cường hợp tác quốc tế, cần có nguồn nhân lực tốt, hướng đi mới, phương pháp tốt,… Hiện nay, Chính phủ đã ban hành chương trình hợp tác quốc tế riêng về biển. Hy vọng sắp tới nước ta sẽ có thêm những đầu tư đúng tầm.

Để đội ngũ nhà khoa học biển mạnh, thiết nghĩ cần giải quyết các vấn đề sau:

Thứ nhất, phải có một tổ chức tập hợp được các nhà khoa học để họ phát huy năng lực của mình trở thành sức mạnh tập thể, to lớn hơn. Hiện nay, chúng ta có các viện có chức năng, nhiệm vụ nghiên cứu về khoa học biển nhưng còn hoạt động tương đối riêng rẽ. Do vậy, các công trình nghiên cứu chưa có tác động mạnh mẽ, thiếu cơ sở dữ liệu “dùng chung”. Vì vậy, bên cạnh tăng cường sự quan tâm về chính sách nghiên cứu khoa học, chúng ta cần phải tái cơ cấu hệ thống các viện nghiên cứu khoa học về biển trên toàn quốc để có sự hợp tác, phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả đích thực trong công tác nghiên cứu biển, đảo thời gian tới.

Thứ hai, bên cạnh cơ chế nhà nước thì phải có cơ chế cho các cá nhân, doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực này.

Thứ ba, rất cần có những giải thưởng về biển và đại dương. Vì đây là động lực sẽ giúp tăng cường công tác tuyên truyền, khuyến khích nghiên cứu, sáng tạo, đổi mới, sự tham gia của các nhà khoa học, người dân, tổ chức, doanh nghiệp vào công cuộc phát triển bền vững kinh tế biển, bảo vệ chủ quyền biển và hải đảo của Tổ quốc. Tuy vậy, hiện nay tại Việt Nam chưa có bất cứ một hình thức giải thưởng chính thức của bộ, ngành nào để tôn vinh, ghi nhận những đóng góp của các tổ chức, cá nhân đối với biển và đại dương. Hy vọng Đề án Giải thưởng Việt Nam về biển và đại dương sớm được lồng ghép và triển khai sớm trong thực tiễn.

HỒNG THỦY

Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam