
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phân họ Xén tóc thường Cerambycinae là một trong những phân họ lớn thuộc họ Xén tóc Cerambycidae, bộ Cánh cứng Coleoptera với khoảng 12.000 loài thuộc 119 tộc và hơn 1800 giống đã được ghi nhận trên toàn thế giới [12]. Các loài Xén tóc thường phân bố ở tất cả các vùng địa lý trên thế giới, ngoại trừ châu Nam Cực, từ mực nước biển cho đến các vùng núi cao 4000m. Các loài Xén tóc hầu hết ăn thực vật và là một trong những loài côn trùng hại gỗ nghiêm trọng nhất trên toàn cầu, ảnh hưởng đến nhiều loại cây trồng rừng, cây trồng nông nghiệp, cây cảnh và các sản phẩm gỗ, gây thiệt hại lớn về kinh tế mỗi năm. Chúng chuyên đục thân, rễ, cành làm suy yếu và gây chết cây trồng, cây rừng.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Vật liệu: Mẫu vật phân họ Xén tóc thường được thu thập qua các đợt thực địa trong nhiều năm trên khắp cả nước, hiện được lưu giữ và bảo quản tại phòng Hệ thống học côn trùng, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật.
2. Phương pháp nghiên cứu: Hệ thống phân loại mẫu vật được sử dụng dựa trên quan điểm của Gressitt và Rondon (1970) [10]. Số liệu thống kê được phân tích trên phần mềm PAST [11]. Các vùng địa lý có thành phần loài tương tự nhau sẽ tập hợp lại thành nhóm. Chỉ số Sorensen được sử dụng để so sánh sự tương đồng về thành phần loài giữa hai vùng. Chỉ số này được tính dựa theo công thức: djk = 2M/(M+N), trong đó M là số loài xuất hiện ở cả hai vùng và N là tổng số loài chỉ xuất hiện ở một vùng.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Cấu trúc thành phần loài Cerambycinae ở Việt Nam
Với số lượng 1645 mẫu vật thu được trong nhiều năm tại rất nhiều địa điểm trong cả nước, chúng tôi đã phân tích được 226 loài Xén tóc thường phân họ Cerambycinae thuộc 73 giống và 20 tộc, trong đó có 68 loài ghi nhận mới cho khu hệ Xén tóc Việt Nam [2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9]. Bên cạnh việc phân tích mẫu hiện có, chúng tôi đã tham khảo nhiều tài liệu và thống kê số loài đã ghi nhận ở Việt Nam nhưng chưa thu được mẫu là 171 loài thuộc 24 giống và 19 tộc. Tổng hợp lại số loài Xén tóc thường phân họ Cerambycinae bắt gặp ở Việt Nam là 397 loài thuộc 98 giống và 20 tộc. Trong số 20 tộc Cerambycinae ở Việt Nam, có 5 tộc chiếm ưu thế, có số lượng và tỷ lệ loài lớn nhất, theo thứ tự lần lượt là: tộc Clytini chiếm 32,24% (128 loài); tộc Callichromatini chiếm 15,87% (63 loài); tộc Cerambycini chiếm 14,86% (59 loài); tộc Callidiopini chiếm 5,79% (23 loài) và tộc Molorchini chiếm 4,28% (17 loài). Tỉ lệ này cũng phù hợp với tỉ lệ các tộc thuộc phân họ Cerambycinae trên thế giới, tương ứng các tộc kể trên thì tộc Clytini có tỉ lệ loài cao nhất chiếm 16,25%; tiếp theo là tộc Callichromatini chiếm 9,90%; tộc Cerambycini chiếm 6,35%; tộc Callidiopini chiếm 3,33% và tộc Molorchini chiếm 2,31%. Theo đó các giống thuộc tộc Clytini cũng là các giống có số lượng và tỷ lệ loài cao, chiếm ưu thế hơn hẳn, đó là các giống sau: Demonax (7,56%); Xylotrechus (7,05%); Chlorophorus (6,55%) và Rhaphuma (6,55%).
2. Phân bố của các loài Xén tóc Cerambycinae theo các vùng địa lý tự nhiên
Theo Averyanov et al. (2003) và Sterling et al. (2006) [1], Việt Nam được chia thành 6 vùng địa lý chính: Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trường Sơn, Nam Trường Sơn, Tây Nguyên và miền Nam Việt Nam. Theo đó, sông Hồng là ranh giới phân chia vùng Tây Bắc và vùng Đông Bắc; sông Cả (Nghệ An) là ranh giới phân chia vùng Tây Bắc với Bắc Trường Sơn; Nam Trường Sơn; Tây Nguyên bắt đầu từ tỉnh Kon Tum tới cao nguyên Di Linh thuộc tỉnh Lâm Đồng; phần còn lại là miền Nam Việt Nam.
Xét về mặt phân bố trên thế giới, tất cả các loài Xén tóc thường ghi nhận ở Việt Nam đều phân bố ở khu vực Đông Phương. Có duy nhất một loài phân bố rộng khắp thế giới đó là loài Chlorophorus annularis (Fabricius, 1787).
Xét về mức độ đa dạng thành phần loài, vùng Đông Bắc có số lượng loài cao nhất (253 loài, chiếm 64,05% tổng số loài Cerambycinae hiện ghi nhận ở Việt Nam), các vùng tiếp theo lần lượt là: vùng Nam Trường Sơn (100 loài, chiếm 25,32% tổng số loài), vùng Tây Bắc (96 loài, chiếm 24,30% tổng số loài), vùng Tây Nguyên (96 loài, chiếm 24,30% tổng số loài), miền Nam Việt Nam (49 loài, chiếm 12,41% tổng số loài và vùng Bắc Trường Sơn (45 loài, chiếm 11,39% tổng số loài) (Hình 1).
Hình 1. Tỉ lệ các loài Xén tóc thường phân họ Cerambycinae trên các vùng địa lý ở Việt Nam
Trong tổng số loài ghi nhận được, có 101 loài mới chỉ bắt gặp ở Việt Nam, hiện chưa ghi nhận ở nơi nào khác trên thế giới, trong đó: 58 loài chỉ ghi nhận ở vùng Đông Bắc, 12 loài chỉ ghi nhận ở vùng Tây Bắc, 7 loài chỉ ghi nhận ở Nam Trường Sơn, 7 loài chỉ ghi nhận ở Tây Nguyên, 3 loài chỉ ghi nhận ở miền Nam Việt Nam và 1 loài chỉ ghi nhận ở Bắc Trường Sơn. Có thể nói vùng Đông Bắc có tính đặc hữu vùng cao nhất với tỉ lệ 23,02% loài đặc hữu được phát hiện tại đây so với tổng sổ loài của vùng. Vùng Tây Bắc là vùng có tính đặc hữu cao chỉ sau vùng Đông Bắc, với 12 loài đặc hữu (chiếm tỉ lệ 12,63% so với tổng số loài của vùng).
Ngược lại với những loài phân bố hẹp nói trên, có 13 loài Xén tóc thường sau đây được ghi nhận ở cả 6 vùng phân bố địa lý của Việt Nam: Nadezhdiella cantori (Hope, 1845); Nadezhdiella fulvopubens (Pic, 1933); Rhytidodera bowringii White, 1853; Rhytidodera integra Kolbe, 1886; Cleomenes nigricollis Fairmaire, 1895; Chlorophorus annularis (Fabricius, 1787); Chlorophorus arciferus (Chevrolat, 1863); Gnatholea eburifera Thomson, 1861; Perissus biluteofasciatus Pic, 1918; Prothema aurata Gahan, 1906; Xoanodera maculata Schwarzer, 1925; Stromatium longicorne (Newman, 1842); và Xystrocera globosa (Olivier, 1795).
Kết quả phân tích chỉ số tương đồng ở bảng 1 cho thấy thành phần loài Xén tóc thường tại vùng Đông Bắc có mức độ tương đồng giống với vùng Tây Bắc nhất (djk = 0,35), trong tổng số 253 loài ghi nhận ở vùng Đông Bắc thì có 53 loài cũng được ghi nhận ở vùng Tây Bắc. Khu vực Nam Trường Sơn có thành phần loài Xén tóc thường tương đồng nhất so với vùng Tây Nguyên (djk = 0,45) và có 39 loài cùng được ghi nhận ở cả hai vùng nói trên. Thành phần loài Xén tóc thường tại khu vực Tây Nguyên có mức độ tương đồng giống với miền Nam Việt Nam thể hiện ở chỉ số djk = 0,35 và số loài tương ứng ở cả hai khu vực trên là 19 loài.
Bảng 1. Chỉ số tương đồng Sorensen về thành phần loài Xén tóc thường thuộc phân họ Cerambycinae giữa các vùng địa lý của Việt Nam
Kết quả phân tích nhóm cụm trên hình 2 cho thấy thành phần loài Xén tóc thường của vùng Đông Bắc và Tây Bắc tạo thành một nhánh riêng biệt với các khu vực còn lại với chỉ số gốc nhánh đạt 100%. Trong bốn khu vực còn lại, miền Nam Việt Nam tách thành một nhánh riêng với chỉ số gốc nhánh đạt 65%, Nam Trường Sơn và khu vực Tây Nguyên tạo thành một nhánh tách riêng khỏi khu vực Bắc Trường Sơn với chỉ số gốc nhánh 84%. Sự tương đồng về thành phần loài ở các khu vực nói trên có thể lý giải do sự gần nhau về mặt địa lý. Tuy nhiên ở một số khu vực có độ tương đồng thấp như Bắc Trường Sơn là do khu vực này có mức độ đa đạng thành phần loài thấp, sinh cảnh đã bị tác động bởi nhiều hoạt động của con người.
Hình 2: Phân tích theo tập hợp nhóm thành phần các loài Xén tóc thường Cerambycinae theo các vùng địa lý (giá trị gốc nhánh với số lần nhắc lại: 100)
IV. KẾT LUẬN
Phân họ Xén tóc thường Cerambycinae ở Việt Nam bao gồm 397 loài, thuộc 20 tộc và 98 giống, phân bố ở cả 6 vùng địa lý của Việt Nam, trong đó vùng Đông Bắc có số lượng loài cao nhất, chiếm đến 64,05% tổng số loài và cũng là vùng mang tính đặc hữu cao nhất với tỉ lệ 23,02% loài được phát hiện tại đây.
Thành phần loài Xén tóc thường tại vùng Đông Bắc có mức độ tương đồng giống với vùng Tây Bắc nhất. Khu vực Nam Trường Sơn có thành phần loài Xén tóc thường tương đồng nhất so với vùng Tây Nguyên. Trong khi đó thành phần loài Xén tóc thường tại vùng Bắc Trường Sơn và miền Nam Việt Nam lại có độ tương đồng thấp so với các vùng còn lại.
Lời cảm ơn: Chúng tôi xin cảm ơn sự hỗ trợ kinh phí từ đề tài Khoa học cấp Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm và Khoa học Công nghệ Việt Nam; mã số IEBR.DT.5-19.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Averyanov L. V., Phan K. L., Nguyen T. H., Harder D. K. (2003). Phytogeographic review of Vietnam and adjacent areas eastern Indochina. Komarovia 2003 (3), 1-83.
[2]. Cao Thi Quynh Nga et al. (2018). Additions to the genus Rhaphuma Pascoe, 1858 (Coleoptera: Cerambycidae: Cerambycinae) from Vietnam. J. Viet. Env. 2018, 9(1), 44-48. https://doi.org.10.13141/jive.vol19.no1.pp44-48.
[3]. Cao Thi Quynh Nga, Khuat Dang Long. (2014). A preliminary list of the subfamily Cerambycinae (Coleoptera: Cerambycinae) of Vietnam. Journal of Biology, 36(1), 12-38. https://doi.org/10.15625/0866-7160/v36n1.4514.
[4]. Cao Thị Quỳnh Nga, Khuất Đăng Long, Tạ Huy Thịnh. (2014). Khóa phân loại tới các tộc và ghi nhận các giống thuộc phân họ Xén tóc thường (Cerambycinae, Cerambycidae, Coleoptera) ở Việt Nam. Hội nghị côn trùng toàn quốc lần thứ 8, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 116-125.
[5]. Cao Thi Quynh Nga, Khuat Dang Long, Ta Huy Thinh. (2014). New recorded of the tribe Cerambycini (Coleoptera: Cerambycidae: Cerambycinae) from Vietnam. Tap chi Sinh hoc (Jourmal of Biology), 36(4), 428-443.
[6]. Cao Thị Quỳnh Nga, Khuất Đăng Long, Tạ Huy Thịnh. (2015). Giống xén tóc thường Chlorophorus Chevrolat, 1863 (Cerambycinae, Cerambycidae) và 6 loài ghi nhận mới ở Việt Nam. Hội nghị khoa học toàn quốc về sinh thái và tài nguyên sinh vật lần thứ 6, 237-242.
[7]. Cao Thi Quynh Nga, Khuat Dang Long, Ta Huy Thinh. (2016). Additions to the genus Demonax Thomson, 1860 (Coleoptera: Cerambycidae: Cerambycinae) from Vietnam. Tap chi Sinh hoc (Journal of Biology), 38(1), 19-32. https://doi.org.10.15625/0866-7160/v38n1.78.
[8]. Cao Thị Quỳnh Nga, Khuất Đăng Long, Tạ Huy Thịnh. (2017). Bổ sung các loài thuộc giống Xylotrechus Chevrolat, 1860 (Coleoptera: Cerambycidae: Cerambycinae) ở Việt Nam. Hội nghị khoa học toàn quốc về sinh thái và tài nguyên sinh vật lần thứ 7, 289-296.
[9]. Cao Thị Quỳnh Nga, Khuất Đăng Long, Tạ Huy Thịnh. (2017). Tộc Xén tóc thường Callichromatini Blandchard, 1845 (Coleoptera: Cerambycidae: Cerambbycinae) và những ghi nhận mới ở Việt Nam. Hội nghị côn trùng toàn quốc lần thứ 9, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 209-229.
[10]. Gressitt J. L., R. J. (1970). Cerambycid-beetles of Vietnam. Pacific Insects Monograph. Bishop Museum, Honolulu, 24, 1-314.
[11]. Hammer O., Harper D. A. T., Ryan P. D. (2001). PAST: Paleotological statistics software package for education nd data analysis. Palaeontologia Electronica 4(1), 9pp.
[12]. Tavakillan G. (Author), a. C. (2019). Base de donnees Titan sur les Cerambycides ou Longicornes (25/3/2019). website: http://titan.gbif.fr/ index.html.
CAO THỊ QUỲNH NGA, PHẠM THỊ NHỊ
HOÀNG VŨ TRỤ, PHẠM VĂN PHÚ, LÊ MỸ HẠNH
Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm KH & CN Việt Nam