Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, an sinh xã hội và hội nhập quốc tế.
Sáng 28/10, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, Quốc hội thảo luận tại Hội trường về Báo cáo kết quả giám sát “việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành”.
Công tác bảo vệ môi trường đạt và vượt nhiều mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng
Báo cáo kết quả giám sát “việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành”, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh - Phó trưởng Đoàn giám sát cho biết, việc ban hành và thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành đã đạt được nhiều kết quả tích cực, quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, an sinh xã hội và hội nhập quốc tế.
Cụ thể, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã ban hành hơn 500 văn bản hướng dẫn và triển khai thi hành Luật Bảo vệ môi trường, qua đó đã cơ bản thể chế và cụ thể hóa đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, quán triệt nguyên tắc môi trường là một trong ba trụ cột “Kinh tế - Xã hội - Môi trường” để phát triển bền vững, chuyển mạnh sang cơ chế quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế với sự tham gia của toàn xã hội.
Công tác bảo vệ môi trường đã có nhiều chuyển biến, đạt và vượt nhiều mục tiêu, chỉ tiêu quan trọng đề ra tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam tăng, đứng top đầu trong ASEAN. Có 03/05 chỉ tiêu đã vượt kế hoạch đặt ra cho năm 2025 gồm: tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường; tỷ lệ che phủ rừng.
Các nguồn thải lớn đã được kiểm soát chủ động và chặt chẽ, không để xảy ra sự cố môi trường lớn; đã xuất hiện nhiều mô hình đô thị, nông thôn, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất sinh thái, thân thiện với môi trường. Nhiều dự án lớn được kiểm soát chặt chẽ về bảo vệ môi trường đi vào vận hành chính thức, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Giai đoạn 2022 - 2024, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thanh tra 812 cơ sở, xử phạt 348 cơ sở với tổng số tiền 96,7 tỷ đồng. Lực lượng Cảnh sát môi trường đã tích cực điều tra, phát hiện, khởi tố 2.336 vụ/2.935 bị can...
Bên cạnh đó, công tác quản lý chất thải có nhiều chuyển biến, tỷ lệ thu gom, xử lý CTRSH tăng dần qua các năm, đến hết năm 2024 đạt 97,26% ở đô thị, 80,5% ở nông thôn, giảm hình thức chôn lấp, việc tái chế, tái sử dụng, tận dụng giá trị tài nguyên từ chất thải được tăng cường. Tốc độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường đã được ngăn chặn, chất lượng môi trường từng bước cải thiện. Công tác ứng phó với biến đổi khí hậu có chuyển biến tích cực; khả năng chống chịu và năng lực thích ứng của hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội được nâng cao, bảo đảm sinh kế bền vững; kiểm kê khí nhà kính tại các doanh nghiệp đã được triển khai thực hiện. Việc chuyển đổi xanh trong các ngành, lĩnh vực hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 được thúc đẩy mạnh mẽ; hành lang pháp lý về phát triển thị trường carbon tại Việt Nam đã và đang được hình thành.
Còn 38/435 cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng chưa hoàn thành xử lý triệt để
Tuy nhiên, Đoàn giám sát nhận thấy, việc tổ chức thực hiện Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 còn một số hạn chế, bất cập. Đó là, tình trạng ô nhiễm môi trường còn xảy ra, vẫn còn diễn biến phức tạp, có thời điểm ở mức độ nghiêm trọng, đặc biệt là ô nhiễm không khí (do bụi mịn) tại các thành phố lớn; chỉ số chất lượng không khí có thời điểm vượt ngưỡng an toàn, ảnh hưởng xấu tới sức khỏe người dân, có những lúc Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh rơi vào nhóm đô thị ô nhiễm nhất thế giới.
Chất lượng môi trường một số đoạn sông tập trung tại khu vực đông dân cư, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, làng nghề trên lưu vực sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy, hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải chậm được cải thiện. Chưa hoàn thành chỉ tiêu về tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý.
Theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, đến năm 2025, 100% cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng phải được xử lý, nhưng đến tháng 9/2025, cả nước vẫn còn 38/435 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng chưa hoàn thành xử lý triệt để.
Việc tuần hoàn, tái sử dụng nước thải, tái chế một số loại chất thải rắn công nghiệp vẫn còn hạn chế; một số mục tiêu chính sách của Luật Bảo vệ môi trường thể hiện trong các pháp luật khác có liên quan chưa đạt hiệu quả mong muốn; tình trạng đơn thư khiếu nại, tố cáo về môi trường, tội phạm, vi phạm pháp luật về BVMT còn xảy ra tại một số địa phương, có vụ việc diễn biến phức tạp, gây mất trật tự an toàn xã hội.
Đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường năm 2020
Trên cơ sở chỉ ra nguyên nhân của hạn chế, bất cập, Đoàn giám sát đã nêu rõ các nhiệm vụ, giải pháp đột phá. Đó là đổi mới tư duy và hoàn thiện thể chế, chính sách về bảo vệ môi trường và tổ chức thực thi quyết liệt, hiệu lực, hiệu quả. Tăng cường và đa dạng hóa nguồn lực cho bảo vệ môi trường. Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Về nhiệm vụ, giải pháp cấp bách hoàn thành đến cuối năm 2026, Phó trưởng Đoàn giám sát Lê Quang Mạnh nêu rõ, tổng kết, đánh giá việc thực hiện và đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, trình Quốc hội xem xét, thông qua đầu nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XVI.
Trước mắt, xem xét sửa đổi ngay một số điều của Luật này tại Kỳ họp thứ 10 để góp phần khơi thông nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp; đồng thời sửa đổi quy định về lộ trình, thời gian áp dụng đối với các chính sách liên quan đến quản lý chất thải rắn sinh hoạt cho phù hợp yêu cầu thực tế. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật có liên quan như thuế, phí bảo vệ môi trường, ngân sách nhà nước, đầu tư...
Tổ chức rà soát, đánh giá và cập nhật, điều chỉnh các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch có liên quan đến bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu để đáp ứng yêu cầu “mở rộng và kiến tạo không gian phát triển mới”, tăng trưởng kinh tế 2 con số trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc xuyên suốt không đánh đổi môi trường lấy phát triển kinh tế đơn thuần, tôn trọng quy luật tự nhiên...
Tập trung tháo gỡ kịp thời những khó khăn; xử lý các “điểm nóng” về ô nhiễm môi trường
Về các nhiệm vụ, giải pháp trung và dài hạn đến năm 2030, Đoàn giám sát yêu cầu phòng ngừa, kiểm soát và ngăn chặn từ sớm, từ xa các nguy cơ gây ô nhiễm, sự cố môi trường; dự báo sớm tác động của biến đổi khí hậu. Khắc phục, cải thiện chất lượng môi trường có trọng tâm, trọng điểm; tăng cường hiệu quả quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại. Hoàn thiện thể chế, chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu; nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Đoàn giám sát kiến nghị Quốc hội ban hành Nghị quyết về giám sát chuyên đề này với những nhiệm vụ, giải pháp cụ thể như đã nêu trên; giám sát Chính phủ tập trung triển khai Nghị quyết của Quốc hội, trọng tâm là việc rà soát, sửa đổi, bổ sung các luật ngay trong năm 2025 - 2026 và giai đoạn đến năm 2030.
Căn cứ kết quả giám sát, Chính phủ chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, triển khai thực hiện các văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách trong lĩnh vực môi trường, khắc phục những hạn chế, bất cập; thực hiện đầy đủ, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp; tập trung tháo gỡ, giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc, xử lý các “điểm nóng” về ô nhiễm môi trường.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình chỉ đạo tổ chức thực hiện, báo cáo Quốc hội kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về chuyên đề giám sát tại cùng kỳ họp với báo cáo công tác bảo vệ môi trường hằng năm; ban hành chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết, trong đó xác định rõ cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp, lộ trình, tiến độ hoàn thành từng nhiệm vụ và bảo đảm kinh phí thực hiện; trước mắt, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đột phá và các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách, hoàn thành đến cuối năm 2026.