Quảng Trị: Phát triển xanh, bền vững từ cánh rừng đến đồng ruộng

Chủ nhật, 2/11/2025, 21:40 (GMT+7)
logo Tỉnh Quảng Trị là một trong những địa phương đi đầu thực hiện Thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ (ERPA). Chương trình không chỉ nâng tỷ lệ che phủ rừng toàn tỉnh lên hơn 61%, mà còn mang lại lợi ích thiết thực cho hàng chục nghìn hộ dân. ERPA đã góp phần cải thiện sinh kế, tăng thu nhập, tạo việc làm cho cộng đồng, đặc biệt với các nhóm tham gia quản lý, bảo vệ rừng. Không chỉ trong lâm nghiệp, sản xuất nông nghiệp của tỉnh Quảng Trị cũng đang chuyển mình theo hướng hiện đại, sinh thái và tuần hoàn. Các mô hình trồng lúa hữu cơ, lạc VietGAP, hợp tác xã nông nghiệp xanh… đang góp phần nâng cao giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường, tăng thu nhập cho nông dân.

Pháp triển thị trường carbon trong lâm nghiệp

Tỉnh Quảng Trị hiện có 285.878 ha rừng và đất lâm nghiệp, chiếm 60,8% diện tích tự nhiên của tỉnh. Khoảng 20.000 ha rừng tự nhiên được giao cho cộng đồng và hộ gia đình quản lý, bảo vệ. Đặc biệt, tại 2 xã Hướng Lập và Hướng Phùng (huyện Hướng Hóa cũ) hiện có 5 cánh rừng tự nhiên đạt chứng chỉ quản lý rừng bền vững (FSC) với diện tích gần 2.145 ha, hấp thụ khoảng 7.000 tấn CO₂/năm và lưu trữ 350.000 tấn CO₂. Đây là minh chứng rõ ràng cho giá trị sống còn của rừng trong ứng phó biến đổi khí hậu.

Theo ngành nông nghiệp và môi trường tỉnh Quảng Trị, phát triển thị trường carbon và hoàn thiện các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon là giải pháp quan trọng nhằm hiện thực hóa mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính với chi phí hợp lý, tăng tính cạnh tranh cho nền kinh tế xanh.

rung-nguyen-sinh_1762062408.webp
Tỉnh Quảng Trị là một trong những địa phương đi đầu thực hiện Thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ (ERPA)

Trong 3 năm qua, tỉnh Quảng Trị (cũ) tích cực triển khai thỏa thuận ERPA do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (trước đây) ký với Ngân hàng Thế giới. Tại Hướng Hóa và Đakrông có hơn 60 cộng đồng, nhóm hộ đang quản lý 12.300 ha rừng tự nhiên đã được chi trả hơn 1,5 tỷ đồng; hơn 80 hộ gia đình nhận trên 70 triệu đồng từ việc quản lý 557 ha rừng tự nhiên. Ngoài ra, mỗi cộng đồng còn được hỗ trợ hàng chục triệu đồng mỗi năm để phát triển sinh kế, cải thiện hạ tầng và công trình công cộng. Chương trình hỗ trợ sinh kế, giao khoán bảo vệ rừng đã nâng cao đời sống bà con miền núi, tạo thêm nhiều việc làm, đồng thời nâng cao nhận thức và năng lực quản lý, bảo vệ rừng cho cộng đồng. Chương trình này cũng giúp ổn định diện tích rừng tự nhiên và đóng góp vào mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính quốc gia.

Tỉnh Quảng Trị tiếp tục tăng cường bảo vệ diện tích rừng đặc dụng, phòng hộ và rừng tự nhiên, triển khai chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững, thúc đẩy trồng rừng gỗ lớn và cấp chứng chỉ rừng; hạn chế suy thoái rừng và giảm thiểu mất rừng, bảo tồn đa dạng sinh học và nâng cao hiệu quả phòng hộ rừng.

rung-nguyen-sinh-2_1762062398.webp
Nhờ nỗ lực của cộng đồng, nhiều khu rừng đã được hồi sinh, xanh tốt trở lại, hệ sinh thái được cải thiện rõ rệt

Theo ông Trần Quốc Tuấn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Trị, nhờ nỗ lực của cộng đồng, nhiều khu rừng đã được hồi sinh, xanh tốt trở lại, hệ sinh thái được cải thiện rõ rệt. Cây rừng lớn dần lên, rừng già tái sinh tự nhiên, và một số loài động vật quý hiếm bắt đầu quay về sinh sống. Hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng, giảm phát thải khí nhà kính từ hạn chế mất rừng và suy thoái rừng, quản lý rừng bền vững và tăng trưởng xanh. Đây là loại hình dịch vụ môi trường rừng mới, tiềm năng và là nguồn thu bền vững, đặc biệt là cho người dân, cộng đồng dân cư miền núi và các đơn vị chủ rừng… Để tiếp tục khai thác tiềm năng, lợi thế của tỉnh về diện tích rừng và trữ lượng carbon, thời gian tới, cần tập trung thực hiện mục tiêu nhằm xác định cụ thể tổng trữ lượng carbon theo từng loại rừng và từng hệ sinh thái để làm cơ sở dữ liệu cho các chương trình trao đổi tín chỉ carbon với quốc tế.

Tỉnh Quảng Trị định hướng khuyến khích trồng rừng gỗ lớn, rừng có chứng chỉ FSC, phát triển chuỗi giá trị lâm sản và đầu tư công nghệ chế biến sâu để gia tăng giá trị xuất khẩu. Điều này mở ra cơ hội kết nối thị trường, tiếp cận các nguồn tài trợ và tài chính xanh. Tiếp tục tổ chức quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững, chặt chẽ diện tích rừng tự nhiên hiện có theo hướng nâng cao chất lượng rừng, chỉ đạo quyết liệt công tác quản lý, bảo vệ rừng, bảo tồn thiên nhiên, phòng cháy chữa cháy rừng. 

Đẩy mạnh các dự án trồng rừng bền vững

Việc đẩy mạnh phát triển dịch vụ môi trường rừng, bảo tồn đa dạng sinh học gắn với phát triển du lịch sinh thái, triển khai thực hiện có hiệu quả chỉ tiêu, kế hoạch của các chương trình, dự án về bảo vệ và phát triển rừng. Đẩy mạnh phát triển trồng rừng gỗ lớn, gắn với xây dựng phương án quản lý rừng bền vững và cấp chứng chỉ rừng. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến vào quản lý, bảo vệ rừng, theo dõi diễn biến rừng.

rung-trong_1762062391.webp
Phát triển dịch vụ môi trường rừng, bảo tồn đa dạng sinh học gắn với du lịch sinh thái

Dự án Nhân rộng Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng tại Việt Nam được tài trợ bởi Chính phủ CHLB Đức, đại diện là Bộ Hợp tác Kinh tế và Phát triển Liên bang Đức (BMZ) viện trợ không hoàn lại thông qua Cơ quan Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ). Dự án do Bộ Nông nghiệp và Môi trường là cơ quan chủ quản cấp trung ương, tại 3 tỉnh miền Trung gồm: Quảng Trị, Gia Lai (Bình Định cũ) và Đắc Lắk (Phú Yên cũ). Với mục tiêu hỗ trợ cho các chủ rừng chuẩn bị các điều kiện sẵn sàng chuyển đổi sang quá trình quản lý rừng bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu, thân thiện với môi trường.

Ban quản lý rừng phòng hộ lưu vực sông Thạch Hãn - Quảng Trị là đơn vị chủ rừng đã được dự án hỗ trợ triển khai thực hiện và chăm sóc 3 mô hình quản lý rừng bền vững bao gồm: Mô hình trồng rừng gỗ lớn Keo xen cây bản địa; Mô hình trồng rừng gỗ lớn keo lai và Mô hình trồng nấm Linh chi đỏ dưới tán rừng trồng.

Mô hình trồng rừng gỗ lớn Keo xen cây bản địa (Lim xanh, Sao đen) tại Ban quản lý rừng phòng hộ lưu vực sông Thạch Hãn có diện tích 4,0 ha. Cả 2 loài cây bản địa sinh trưởng tốt, đặc biệt là Lim xanh, nhưng chiều cao, đường kính cây có sự khác biệt do việc trồng dặm và điều kiện lập địa.

Mô hình trồng Nấm Linh chi đỏ (Ganoderma lucidum Leyss ex. Fr. Karst) dưới tán rừng trồng, Ban quản lý rừng phòng hộ lưu vực sông Thạch Hãn trồng, chăm sóc, thu hoạch. Dự án hỗ trợ điểm trình diễn với quy mô 1200 phôi/150 m2/điểm trình diễn. 

Dự án đã hỗ trợ Ban quản lý rừng phòng hộ lưu vực sông Thạch Hãn xây dựng đề án liên doanh, liên kết giúp chủ rừng thực hiện và đạt được mục tiêu tự chủ tài chính nhằm giúp các Ban QLRPH hoạt động hiệu quả hơn, đóng góp tích cực vào việc quản lý rừng bền vững, đồng thời giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước, chủ rừng chủ động trong tiếp cận với các nguồn tài chính hỗ trợ từ bên ngoài.

Qua các hoạt động hỗ trợ từ dự án Nhân rộng Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng tại Việt Nam, phát triển hướng tới tạo nguồn thu thực hiện tự chủ tài chính cho đơn vị và sẵn sàng chuyển đổi sang quá trình quản lý rừng bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu, thân thiện với môi trường.

Cánh đồng sinh thái tuần hoàn

Không chỉ trong lâm nghiệp, sản xuất nông nghiệp của tỉnh Quảng Trị cũng đang chuyển mình theo hướng hiện đại, sinh thái và tuần hoàn. Các mô hình trồng lúa hữu cơ, lạc VietGAP, hợp tác xã nông nghiệp xanh… đang góp phần nâng cao giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường, tăng thu nhập cho nông dân.

Vụ hè thu 2025, hơn 2.000 ha lúa tại tỉnh Quảng Trị được canh tác theo quy trình giảm phát thải khí nhà kính. Mô hình này giúp tiết kiệm nước, giảm chi phí, hạn chế sâu bệnh, trong khi năng suất và chất lượng vẫn đảm bảo. Biện pháp tưới khô xen ướt (AWD) giúp giảm tới gần 70% khí mê-tan (CH₄), tương đương 3,34 tấn CO₂/ha không phát ra môi trường. Quan trọng hơn, nông dân thay đổi tư duy sản xuất, hướng đến lợi ích lâu dài từ thị trường carbon.

lua_1762062843.webp
Định hướng trong thời gian tới, tỉnh Quảng Trị sẽ tập trung đồng bộ hóa kỹ thuật và công nghệ để biến cây lúa thành “tài sản carbon”

Tỉnh Quảng Trị hiện nay đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ có khoảng 50.000 ha lúa, tương đương một nửa diện tích lúa toàn tỉnh tham gia chương trình, chinh phục thị trường tín chỉ carbon toàn cầu. Nếu tổ chức sản xuất tốt và ứng dụng công nghệ số trong giám sát minh bạch, hạt gạo Quảng Trị hoàn toàn có thể đạt chứng nhận quốc tế, mang về “cơ hội kép” tăng thu nhập cho nông dân và khẳng định vị thế ngành nông nghiệp xanh.

Quảng Trị là một trong những địa phương tiên phong áp dụng mô hình lúa giảm phát thải khí nhà kính. Từ vài chục ha thí điểm, đến nay toàn tỉnh đã có hơn 2.000 ha, hướng tới chứng nhận quốc tế để tham gia thị trường tín chỉ carbon. Đây là bước đi quan trọng mở ra con đường cho nông nghiệp xanh, bền vững và hội nhập. Phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng xanh, sinh thái, tuần hoàn, giảm phát thải, thích ứng với biến đổi khí hậu của tỉnh Quảng Trị.

Theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Hồng Phương, định hướng trong thời gian tới, tỉnh sẽ tập trung đồng bộ hóa kỹ thuật và công nghệ để biến cây lúa thành “tài sản carbon”. Giải pháp trọng tâm là đẩy mạnh sử dụng phân bón hữu cơ, chế phẩm sinh học, giảm hóa chất trong sản xuất; áp dụng kỹ thuật AWD, nông lâm kết hợp, khuyến cáo nông dân không đốt rơm rạ, thực bì sau thu hoạch để giảm phát thải. "Cấy khô xen ướt là kỹ thuật đã được Bộ Nông nghiệp và Môi trường và các chuyên gia quốc tế khuyến cáo. Áp dụng phương pháp này giúp lúa chống đổ ngã, năng suất cao hơn, tiết kiệm ít nhất 30% lượng nước tưới. Quan trọng hơn, nông dân dần nhận thức được lợi ích lâu dài, từng bước tham gia thị trường tín chỉ carbon, mở ra hướng đi mới cho sản xuất lúa ở Quảng Trị", bà Nguyễn Hồng Phương cho biết.

Tỉnh Quảng Trị đặt mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, ứng dụng công nghệ cao, thích ứng với biến đổi khí hậu; phát triển nông nghiệp xanh, tuần hoàn, hữu cơ gắn với thị trường. Đồng thời, tiếp tục gắn bảo vệ rừng với phát triển du lịch sinh thái, tạo thêm nguồn lực và phát triển kinh tế cộng đồng. Phát triển nông, lâm nghiệp bền vững sẽ giúp Quảng Trị vững bước trên hành trình phát triển xanh, hài hòa và bền vững.

Bên cạnh đó, tiếp tục tăng cường chuyển giao, tập huấn kỹ thuật giúp nông dân làm chủ quy trình canh tác thân thiện với môi trường; chuyển giao kỹ năng số và nâng cao năng lực tiếp cận thị trường carbon cho HTX, nông dân; tiếp tục hoàn thiện nền tảng quản lý vùng trồng trực tuyến, kết nối dữ liệu từ cảm biến, drone và ảnh vệ tinh để bảo đảm tính minh bạch và sẵn sàng chủ động khi sàn giao dịch carbon chính thức đi vào hoạt động...

Đinh Loan