Thực trạng công tác kiểm soát tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo

Thứ ba, 14/1/2025, 16:23 (GMT+7)
logo Nước ta có trên 3.260 km đường bờ biển và trên 3.000 hòn đảo lớn nhỏ (gồm 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) được đánh giá là một trong những quốc gia có tiềm năng và lợi thế lớn về tài nguyên biển và hải đảo. Vì vậy, việc kiểm tra, giám sát để bảo vệ tài nguyên, môi trường biển phải thường xuyên, nghiêm minh và luôn đặt ra cho các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương những bài toán pháp lý đồng bộ. Để nâng cao hiệu quả phối hợp trong xây dựng, thực hiện pháp luật về quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo, những năm qua, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ban ngành, trong đó với với Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam, với Cục Cảnh sát Biển triển khai nhiều nội dung và đạt được những kết quả tích cực.

Thực trạng công tác kiểm soát tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo

Ghi nhận về công tác thanh tra, kiểm soát

Khoản 3 Điều 50 Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo (TN, MT B&HĐ) năm 2015 quy định “Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết bộ chỉ số và việc đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo”. Thực hiện quy định này, Bộ TN&MT đã quy định các nội dung về tiêu chí, chỉ số và bổ chỉ số phục vụ việc đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo.

Từ năm 2017 đến năm 2021, Bộ TN&MT đã tiến hành đánh giá kết quả hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo theo quy định, kết quả thực hiện nội dung kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo của Bộ TN&MT trong 05 năm đều đạt kết quả tốt.

Báo cáo hiện trạng môi trường biển quốc gia giai đoạn 05 năm (2016-2020) do Cục Biển và Hải đảo Việt Nam xây dựng, là báo cáo hiện trạng môi trường biển đầu tiên được Bộ TN&MT công bố. Báo cáo hiện trạng môi trường biển, hải đảo theo chuyên đề hằng năm được xây dựng trên cơ sở phân tích và đánh giá mức độ cấp thiết các vấn đề môi trường của từng khu vực biển. Đồng thời, nhằm mục tiêu các báo cáo chuyên đề hằng năm sẽ phục vụ cho báo cáo tổng quan giai đoạn 5 năm được xây dựng vào các năm 2025, 2030, 2035...

Về thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển, thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 42 Nghị định số 40/2016/NĐ-CP của Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo, Bộ TN&MT đã ban hành Thông tư số 29/2016/TT- BTNMT. Kết quả, đã có 26/28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển phê duyệt Danh mục các khu vực phải thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển; còn 02 địa phương chưa phê duyệt là tỉnh Cà Mau và TP. Hồ Chí Minh (trong đó, tỉnh Cà Mau đang tiến hành xin ý kiến đối với Danh mục các khu vực phải thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển).

Trong số 26 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển đã phê duyệt Danh mục các khu vực phải thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển, có 21 tỉnh đã xác định và phê duyệt chiều rộng, ranh giới hành lang bảo vệ bờ biển trên địa bàn; còn 05 tỉnh đang trong quá trình xác định và phê duyệt ranh giới hành lang bảo vệ bờ biển gồm: Thanh Hóa, Khánh Hòa, Bình Thuận, Tiền Giang, Kiên Giang.

Trong số 21 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển đã phê duyệt chiều rộng, ranh giới hành lang bảo vệ bờ biển, có một số địa phương đã tiến hành và hoàn thiện việc cắm mốc giới hành lang bảo vệ bờ biển và ban hành quy định về quản lý, bảo vệ hành lang bảo vệ bờ biển trên địa bàn.

Về nhận chìm ở biển, từ năm 2017 đến nay, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam phê duyệt cấp 36 Giấy phép nhận chìm ở biển, trong đó có: 33 Giấy phép nhận chìm ở biển được cấp mới; sửa đổi, bổ sung 02 Giấy phép nhận chìm ở biển; gia hạn 01 Giấy phép nhận chìm ở biển. Việc thẩm định, xem xét các Hồ sơ đề nghị cấp, gia hạn, sửa đổi bổ sung giấy phép nhận chìm ở biển được thực hiện theo các quy định của Luật TN, MT B&HĐ và Nghị định số 40/2016/NĐ-CP.

Từ năm 2015 đến năm 2023, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam đã tổ chức triển khai được 37 cuộc kiểm tra; 03 cuộc thanh tra việc thực hiện các quy định pháp luật về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển. 

Kết quả kiểm tra tại các Sở TN&MT đã làm rõ những việc đã làm được, chưa làm được, những việc còn khó khăn vướng mắc, nguyên nhân của những khó khăn vướng mắc ở từng địa phương, qua đó kịp thời đôn đốc, hướng dẫn, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc cho các địa phương trong việc triển khai thi hành Luật TN, MT B&HĐ, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước và thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường biển, hải đảo.

Thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra đã phát hiện những tồn tại, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp luật để kiến nghị cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành, sửa đổi các quy định của pháp luật về tài nguyên môi trường biển, hải đảo và pháp luật có liên quan, đảm bảo phù hợp thực tiễn, nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về TN, MT B&HĐ.

Kết quả kiểm tra cho thấy, công tác quản lý nhà nước về biển và hải đảo của các địa phương trong những năm qua ngày càng được nâng cao. Sở TN&MT các địa phương đã tích cực tham mưu trong công tác quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo, xây dựng và trình ban hành kế hoạch, chiến lược, kiện toàn bộ máy, tổ chức và đạt được nhiều kết quả. Tuy nhiên, quá trình triển khai nhiệm vụ quản lý nhà nước luôn phát sinh khó khăn, vướng mắc cần được hướng dẫn, tháo gỡ. Một số nhiệm vụ một số nhiệm vụ còn chậm triển khai như lập hồ sơ quản lý hải đảo; rà soát đối tượng sử dụng tài nguyên biển nhưng chưa được giao khu vực biển theo quy định.

Qua quá trình triển khai việc kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về TN, MT B&HĐ tại các địa phương cho thấy, tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực TN, MT B&HĐ chủ yếu liên quan đến hành vi vi phạm về giao, sử dụng khu vực biển: Sử dụng khu vực biển khi không có quyết định giao khu vực biển của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; hành vi vi phạm quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 27b Nghị định số 162/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 (được bổ sung tại Khoản 19 Điều 3 Nghị định số 37/2022/NĐ-CP ngày 06/6/2022 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu; quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia; trên các vùng biển, đảo và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Một số hành vi vi phạm được phát hiện thuộc thẩm quyền của địa phương đã kiến nghị Sở TN&MT tại địa phương xác minh, xử lý theo quy định.

Căn cứ các Giấy phép nhận chìm ở biển được Bộ TN&MT cấp cho các tổ chức, doanh nghiệp, Cục Biển và Hải đảo Việt Nam thành lập các Tổ công tác thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động nhận chìm ở biển nhằm đảm bảo các hoạt động nhận chìm ở biển được thực hiện đúng theo Giấy phép đã được cấp, tuân thủ theo các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường biển và hải đảo và các quy định khác có liên quan, cụ thể: theo dõi, kiểm tra và giám sát việc thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, giám sát môi trường theo yêu cầu của Giấy phép nhận chìm ở biển, theo Dự án nhận chìm ở biển và theo quy định của pháp luật có liên quan; tạm dừng hoạt động nhận chìm ở biển trong trường hợp các chủ Dự án vi phạm các nội dung theo Giấy phép nhận chìm ở biển, Quyết định giao khu vực biển và quy định của pháp luật có liên quan. Định kỳ hàng tháng báo cáo Bộ TN&MT về kết quả hoạt động nhận chìm của Tổ công tác liên ngành.

Phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan để quản lý, bảo vệ chủ quyền 

Với Cảnh sát biển (Bộ Quốc phòng): Hai bên tiếp tục phối hợp chặt chẽ trong công tác xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ chủ quyền biển, hải đảo; quản lý tổng hợp tài nguyên và BVMT biển và hải đảo. Trong đó, đã cử các cán bộ có chuyên môn, năng lực phù hợp tham gia Tổ soạn thảo, Tổ biên tập xây dựng văn bản, góp ý Dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật như: Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, BVMT biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý tổng hợp tài nguyên, BVMT biển và hải đảo; Dự thảo Nghị định quy định về thế chấp, cho thuê, góp vốn, chuyển nhượng quyền sử dụng khu vực biển để nuôi trồng thủy sản; bồi thường khi Nhà nước thu hồi khu vực biển được giao để nuôi trồng thủy sản vì mục đích công cộng, quốc phòng, an ninh; góp ý Thông tư hướng dẫn điều tra, đánh giá, xác định thiệt hại và lập hồ sơ bồi thường thiệt hại về môi trường do dầu tràn trong vùng biển Việt Nam,...

Đồng thời, hai bên đã phối hợp tổ chức các Đoàn công tác khảo sát, đánh giá tình hình thực hiện quy định của pháp luật về kiểm soát tài nguyên, BVMT biển và ven bờ khu vực biển các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và Kiên Giang. Kết quả kiểm tra, khảo sát và qua báo cáo của các đơn vị cho thấy, Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 3 và Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 4, Sở TN&MT tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và Kiên Giang đã thực hiện việc kiểm soát tốt, có phương án ngăn chặn, xử lý nhiều hành vi vi phạm pháp luật về TN&MT biển, hải đảo trên địa bàn, khu vực quản lý. Theo đó, Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 3 đã thực hiện nhiệm vụ trực sẵn sàng chiến đấu, thực thi pháp luật trên biển, trong đó có hoạt động phòng, chống tội phạm vi phạm môi trường biển. Từ năm 2017 đến nay, đơn vị đã đấu tranh bắt giữ 45 vụ việc/47 phương tiện có hành vi vi phạm pháp luật trên địa bàn vùng biển quản lý. Kết quả: Khởi tố 2 vụ/2 phương tiện bàn giao cho cơ quan điều tra có thẩm quyền; tiến hành xử phạt vi phạm hành chính 43 vụ/45 phương tiện nộp ngân sách Nhà nước số tiền trên 4,3 tỷ đồng, tịch thu trên 5,4 triệu lít dầu DO, 3,06 triệu lít xăng A95,... Từ tháng 1/2020 đến nay, Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 3 đã tiến hành điều tra, xử lý 2 vụ/4 phương tiện có hành vi khai thác cát trái phép. Kết quả, đã xử phạt vi phạm hành chính trên 400 triệu đồng, tịch thu trên 700m3 cát nhiễm mặn, 4 phương tiện thủy nội địa, phát mại hàng hóa tịch thu sung công quỹ Nhà nước trên 3,8 tỷ đồng.

Năm 2023 cũng đã xảy ra 31 vụ/43 tàu/218 ngư dân Việt Nam vi phạm vùng biển nước ngoài bị bắt giữ, xử lý. Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với 2 vụ/2 tàu vận chuyển 21 thiết bị giám sát hành trình tổng số tiền trên 4 tỷ đồng. Ngoài ra, Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 4 đã theo dõi, giám sát, ngăn chặn các hành vi vi phạm, nhất là hoạt động của tàu cá ta vi phạm Khai thác hải sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU); phối hợp với các Chi cục thủy sản, Đồn Biên phòng thông báo tình hình tàu cá mất tín hiệu giám sát hành trình; thông báo, cảnh báo các chủ phương tiện về các tàu tắt giám sát hành trình, tàu vi phạm vùng biển nước ngoài, tàu có nguy cơ cao vi phạm và yêu cầu các tàu quay về vùng biển Việt Nam, mở thiết bị giám sát hành trình.

Đặc biệt, Bộ Tư lệnh Vùng cảnh sát biển 3 và 4 thường xuyên duy trì đài canh 24/24 với các tàu thuyền hoạt động trên biển và kết nối thông tin liên lạc với các Trung tâm tìm kiếm cứu nạn khu vực và Trung tâm tìm kiếm cứu nạn các tỉnh, Cảng vụ hàng hải trong khu vực sẵn sàng hiệp đồng, phối hợp chặt chẽ với các lưc lượng trên địa bàn để xử lý kịp thời khi có tình huống xảy ra; tiến hành phát tờ rơi tuyên truyền về công tác cứu hộ, cứu nạn, phòng chống thiên tai cho các tàu thuyền lưu thông trên biển. Trong thời gian qua, Bộ Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 3 đã tiếp nhận và xử lý kịp thời hàng nghìn thông tin tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn trên biển, trực tiếp tham gia thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, cứu nạn 55 vụ, 272 người, 35 phương tiện, vớt được 16 thi thể nạn nhân bị nạn.

Từ năm 2016 đến năm 2020, hai bên đã ký kết kế hoạch thực hiện phối hợp hoạt động của từng năm, cụ thể như sau: Kế hoạch số 01/KH-BTLCSB- TCBHĐVN ngày 06/4/2016; Kế hoạch số 04/KH-BTLCSB-TCBHĐVN ngày 31/3/2017; Kế hoạch số 2966/KH- BTLCSB- TCBHĐVN ngày 22/6/2018; Kế hoạch số 3546/KH-BTLCSB-TCBHĐVN ngày 19/4/2019; Kế hoạch số 03/KH-BTLCSB-TCBHĐVN ngày 03/6/2020.

Với Cảnh sát Môi trường (Bộ Công an): Qua quá trình triển khai thực hiện, hai Bên cơ bản thực hiện tốt công tác phối hợp theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; luôn thống nhất, đảm bảo đúng nguyên tắc và yêu cầu nghiệp vụ, bước đầu đã đạt được những kết quả trong hoạt động quản lý, bảo vệ TN, MT B&HĐ. 

Công tác xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, hai bên thường xuyên phối hợp thông qua việc các bên cử người tham gia tổ soạn thảo, tổ biên tập xây dựng dự thảo các văn bản như: Góp ý xây dựng quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý tổng hợp tài nguyên, BVMT biển và hải đảo (Nghị định số 37/2022/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu; quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia; trên các vùng biển, đảo và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), góp ý xây dựng Thông tư ban hành Danh mục chất phân tán được phép sử dụng trên biển Việt Nam và hướng dẫn về quy trình sử dụng chất phân tán trong ứng phó sự cố tràn dầu trên biển (Thông tư số 19/2020/TT-BTNMT), Báo cáo hiện trạng môi trường biển và hải đảo Quốc gia giai đoạn 2016 2020, Báo cáo Hiện trạng môi trường biển ven bờ khu vực phía Bắc năm 2021; Góp ý xây dựng Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, BVMT biển và hải đảo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Góp ý xây dựng lập Quy hoạch không gian biển quốc gia và nhiệm vụ lập Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045. 

PHƯƠNG LOAN
Cục Biển và Hải đảo Việt Nam
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 20 (Kỳ 2 tháng 10) năm 2024