
Thực trạng quản lý và phát triển cấp nước
Nước sạch là một loại hàng hóa đặc biệt, có tác động trực tiếp đến sức khỏe và mọi hoạt động thiết yếu khác của cuộc sống con người. Đại Hội đồng Liên hợp quốc ngày 28/7/2010 đã thông qua Nghị quyết công nhận việc tiếp cận nguồn nước sạch và hệ thống vệ sinh là một quyền cơ bản của con người. Nhiều nước trên thế giới cũng đã quy định sử dụng nước sạch là quyền của con người. Ở Việt Nam, cùng với điều kiện KT-XH ngày càng phát triển, chất lượng cuộc sống của con người ngày càng được quan tâm nhiều hơn thì đảm bảo việc tiếp cận nguồn nước sạch an toàn, bền vững đã được Đảng và Nhà nước chỉ đạo, tổ chức thực hiện từ công tác xây dựng thể chế, quy hoạch đến huy động các nguồn lực nhà nước, xã hội cho đầu tư phát triển và quản lý vận hành công trình cấp nước, từng bước đáp ứng nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt và phát triển KT-XH.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII ngày 01/02/2021 của Đảng Cộng sản Việt Nam định hướng các chỉ tiêu đến năm 2025: Tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư thành thị là 95 - 100%, nông thôn là 93 - 95%; Kết luận số 36/KL-TW của Bộ Chính trị ngày 26/3/2022 về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030 xác định mục tiêu “Bảo đảm số lượng, chất lượng nước phục vụ dân sinh trong mọi tình huống; đáp ứng nhu cầu sử dụng nước cho sản xuất, kinh doanh của các ngành, lĩnh vực, đặc biệt là các ngành kinh tế quan trọng, thiết yếu; mọi người dân, mọi đối tượng được tiếp cận, sử dụng nước công bằng, hợp lý.
Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017; trong đó, tại Mục tiêu 6.1 “Đến năm 2030, đảm bảo khả năng tiếp cận đầy đủ, công bằng với nước uống và sinh hoạt an toàn trong khả năng chi trả cho tất cả mọi người”, mục a, b: Giao Bộ Xây dựng, Bộ NN&PTNT xây dựng cơ chế chính sách, định mức kinh tế kỹ thuật, công nghệ xử lý,… về cấp nước, đảm bảo người dân được tiếp cận đầy đủ và công bằng với nước uống và nước sạch an toàn.
Việc cung cấp nước sạch khu vực đô thị và khu vực nông thôn đang được quản lý khác nhau từ công tác quy hoạch, chất lượng đầu tư xây dựng, khai thác vận hành, chất lượng dịch vụ. Đối với khu vực đô thị, việc kiểm soát chất lượng và lưu lượng nước sạch cho các khu đô thị mới, khu dân cư cuối mạng còn hạn chế. Đối với khu vực nông thôn, nhiều công trình cấp nước có chất lượng nước không đảm bảo quy định, công trình hư hỏng, không bền vững do nguồn nước nhỏ lẻ bị ô nhiễm, cạn kiệt, thiếu nguồn lực cho vận hành, bảo trì, cải tạo công trình.
Đối với khu vực đô thị trên cả nước có khoảng hơn 250 doanh nghiệp cấp nước, đang vận hành trên 750 nhà máy nước và mạng đường ống cấp nước bao phủ khu vực đô thị, khu dân cư nông thôn lân cận; tổng công suất các nhà máy nước khoảng 12,6 triệu m3/ngđ, tỷ lệ dân cư đô thị được cung cấp nước sạch 95%; tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch 16,5%. Đối với khu vực nông thôn có khoảng 18.000 công trình cấp nước sạch nông thôn tập trung, 10 triệu công trình cấp nước quy mô hộ gia đình (sử dụng giếng khoan, giếng đào, bể trữ nước mưa, công trình lắng lọc sơ bộ); tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 92,5%, trong đó gần 54% sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn QCVN 02:2009/BYT của Bộ Y tế, khoảng 44% dân số nông thôn (hơn 28,5 triệu người) được cấp nước từ công trình cấp nước sạch nông thôn tập trung, 56% dân số nông thôn còn lại (36,3 triệu người) sử dụng nước cho sinh hoạt từ công trình cấp nước quy mô hộ gia đình.
Về quản lý cấp nước, Chính phủ giao Bộ Xây dựng quản lý nhà nước về cấp nước khu vực đô thị, Bộ NN&PTNT quản lý cấp nước khu vực nông thôn; Bộ TN&MT quản lý nguồn nước; Bộ Y tế quản lý, giám sát chất lượng nước. UBND cấp tỉnh có trách nhiệm trong việc thực hiện quản lý nhà nước và tổ chức, phát triển dịch vụ cấp nước trên địa bàn do mình quản lý.
Luật Quy hoạch năm 2017 và văn bản hướng dẫn không quy định cụ thể nội dung cấp nước trong quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh. Các đồ án quy hoạch tỉnh được lập trong thời gian qua có nội dung rất khác nhau; nhìn chung, quy hoạch cấp nước tỉnh chưa đủ nội dung lập các dự án đầu tư, chưa đáp ứng tính chuyên ngành. Theo Luật Quy hoạch đô thị (Dự thảo Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn) và Luật Xây dựng, bao gồm quy hoạch cấp nước trong quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn, quy hoạch xây dựng khu chức năng, vùng huyện nhưng không bao gồm phạm vi toàn tỉnh; do đó, nội dung quy hoạch cấp nước trong các quy hoạch này thiếu tính liên kết vùng và bị giới hạn trong phạm vi đô thị, nông thôn, vùng huyện. Từ việc phân giao quản lý cấp nước, nội dung quy hoạch cấp nước thiếu tính gắn kết khu vực đô thị, nông thôn, thiếu tính vùng; chủ yếu tập trung huy động nguồn lực tư nhân đầu tư lấp kín khu vực cấp nước còn thiếu; dẫn đến phát triển cấp nước manh mún, nhỏ lẻ, thiếu bền vững, hạn chế hỗ trợ phát triển cấp nước nông thôn.
Mô hình quản lý cấp nước khu vực nông thôn đa dạng bao gồm: UBND xã, hợp tác xã, thôn, bản, đơn vị sự nghiệp công lập, công ty cổ phần hoặc tư nhân; năng lực vận hành công trình cấp nước nông thôn (cộng đồng, UBND xã, tư nhân,…) chưa đáp ứng yêu cầu hoặc thiếu kiểm soát, không bảo đảm chất lượng dịch vụ cấp nước và tính bền vững của công trình. Chất lượng nước, chất lượng dịch vụ cấp nước nông thôn (công trình cấp nước phân tán) chưa đáp ứng quy chuẩn chất lượng nước sạch, quy chuẩn kỹ thuật cấp nước. Đầu tư công trình cấp nước nông thôn chi phí cao nhưng giá nước sạch quá thấp không đảm bảo đủ chi phí tái đầu tư, thậm chí cả chi phí vận hành, bảo trì công trình.
Xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật về cấp nước
Để thống nhất quản lý nhà nước về cấp nước đô thị và nông thôn đáp ứng mục tiêu, cần xây dựng hoàn thiện thể chế pháp luật về cấp nước. Theo Bộ Xây dựng, mục đích xây dựng Luật Cấp, thoát nước nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về cấp, thoát nước và bảo đảm quyền được tiếp cận nguồn nước sạch của người dân; hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ làm công cụ quản lý, phát triển cấp, thoát nước từ định hướng, quy hoạch, đầu tư xây dựng đến khai thác vận hành.
Bộ Xây dựng xây dựng dự thảo Luật Cấp, thoát nước với 4 chính sách cơ bản, một trong số đó là nâng cao chất lượng dịch vụ và đổi mới mô hình quản lý vận hành hệ thống cấp, thoát nước. Mục tiêu của chính sách nhằm lựa chọn chủ đầu tư, đơn vị cấp, thoát nước đáp ứng năng lực tài chính, kỹ thuật trong đầu tư, vận hành công trình; quản lý vận hành công trình cấp, thoát nước đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hiệu quả kinh tế. Từ chính sách này, vấn đề bảo đảm nước sạch sinh hoạt cho người dân sẽ có quy định cụ thể hơn.
Để phù hợp điều kiện ngành cấp, thoát nước, cần phải có quy hoạch chuyên ngành về cấp, thoát nước cho tất cả các đô thị, việc này cần phải được cụ thể hóa vào trong Luật. Khi có quy hoạch chuyên ngành thì mới xác định được vị trí nhà máy, vị trí nguồn nước và vị trí tuyến ống. Từ quy hoạch chuyên ngành tiến tới phân vùng quản lý cho từng đơn vị cấp, thoát nước, từ đó tránh được việc 1 vùng, 1 khu vực có tới 2 đơn vị cấp, thoát nước sẽ dẫn tới chồng chéo.
Đối với đơn vị được giao cấp, thoát nước tại vùng nào thì phải xây dựng được kế hoạch đầu tư, phát triển hệ thống, hạ tầng cấp, thoát nước theo quy hoạch vùng. Đặc biệt, đơn vị phải xây dựng kế hoạch cấp, thoát nước an toàn và trình chính quyền địa phương rồi sau đó mới được thực hiện hoạt động đầu tư, xây dựng dự án cấp, thoát nước, việc này cũng phải được cụ thể hóa trong Luật. Có như vậy, việc cung cấp nước sinh hoạt cho người dân mới được bảo đảm. Ngoài ra, cần phải miễn tiền thuê đất cho đơn vị hoạt động cấp thoát nước, cho phép điều chỉnh giá nước 3 năm 1 lần thì mới thu hút được doanh nghiệp đầu tư xây dựng hệ thống cấp, thoát nước.
Thực tế cho thấy, việc bảo đảm cấp nước, thoát nước an toàn, phòng tránh các dịch bệnh do nước gây ra chưa có các quy định cụ thể và chế tài xử lý khi vi phạm. Hiện nay, nhiều ngành, lĩnh vực đã có luật điều chỉnh như: Luật Giá, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Điện lực,… trong khi vấn đề cấp, thoát nước liên quan đến toàn xã hội, từ người dân, đến doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức đều được thụ hưởng thì lại chưa có luật riêng. Do vậy, nếu sớm ban hành Luật thì nhiều tồn tại, vướng mắc, khó khăn của ngành sẽ sớm được tháo gỡ, hóa giải.
Thời gian qua, Bộ Xây dựng và Bộ NN&PTNT quản lý về cấp nước khu vực đô thị và nông thôn, còn về nguồn nước lại do nhiều bộ quản lý. Bên cạnh đó, chất lượng một số đồ án quy hoạch cấp nước còn hạn chế, những vấn đề về ô nhiễm nguồn nước, hành lang bảo vệ nguồn nước cũng chưa được quan tâm đúng mức, còn thiếu cơ chế chính sách thống nhất. Luật Quy hoạch cũng không quy định việc lập quy hoạch cấp nước vùng tỉnh, vùng liên nên gây khó khăn khi lập các dự án. Xét riêng về Quy hoạch cấp nước vùng tỉnh, liên tỉnh và quy hoạch cấp nước đô thị thì cả nước mới có 2 quy hoạch cấp nước cho các vùng kinh tế đã lập và phê duyệt. Vì vậy, việc xây dựng luật chuyên ngành cấp thoát nước là một nhiệm vụ trọng tâm trong mục tiêu đột phá phát triển hạ tầng kỹ thuật đáp ứng quan điểm “Quy hoạch đô thị và phát triển kết cấu hạ tầng các đô thị phải đi trước một bước và tạo ra nguồn lực chủ yếu cho phát triển đô thị” (NQ số 06-NQ/TW).
Để đảm bảo quản lý thống nhất về cấp nước cần rà soát, điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của các cơ quan từ trung ương tới địa phương trong việc thực hiện chức năng QLNN về cấp nước với mục tiêu thống nhất QLNN về cấp nước; cụ thể: Tại trung ương, giao 01 Bộ là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện QLNN về cấp nước trên phạm vi cả nước; tại địa phương, giao 01 Sở tham mưu giúp UBND cấp tỉnh quản lý phát triển cấp nước trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
NGUYỄN MINH ĐỨC
Cục Hạ tầng kỹ thuật, Bộ Xây dựng
Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 5 năm 2024