Vai trò của Hội Nông dân trong công tác bảo vệ môi trường

Thứ sáu, 22/12/2023, 15:18 (GMT+7)
logo Bên cạnh nhiều thành quả đạt được, các mô hình phát triển kinh tế khu vực nông thôn vẫn chưa thực sự bền vững; chất lượng môi trường nông thôn đang đứng trước thách thức chịu áp lực rất lớn từ phát triển kinh tế và xã hội, thực sự cần được cảnh báo để có những giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn ngay từ các giai đoạn quy hoạch và phát triển hạ tầng. Bên cạnh đó, do quá trình lịch sử và văn hóa, nên hoạt động sản xuất ở các vùng nông thôn vẫn mang tính chất nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu, hiệu quả sử dụng nguyên/nhiên liệu thấp, mặt bằng sản xuất hạn chế cùng với nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường chưa thực sự được phát huy. Các yếu tố này đã tạo sức ép lên môi trường và là nguyên nhân trực tiếp gây ô nhiễm môi trường ở một số vùng nông thôn.

Thực trạng các vấn đề môi trường nông thôn

Theo xu thế, môi trường nông thôn (MTNT) sẽ dần đối mặt với nhiều nguy cơ tiềm ẩn trước mắt và lâu dài, bao gồm: Xu thế dịch chuyển các hoạt động sản xuất từ đô thị về khu vực nông thôn, đặc biệt là các loại hình có nguy cơ ÔNMT rất cao; các dòng chất thải dịch chuyển từ đô thị về nông thôn để tái chế, xử lý; nhu cầu hàng hóa gia tăng, nên khu vực nông thôn bị gánh chịu nhiều hậu quả của tình trạng lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), kích thích tăng trưởng, diệt cỏ và rất nhiều các hóa chất khác, đồng thời, phần dư thừa từ hoạt động sản xuất (phụ phẩm nông nghiệp) gây áp lực không nhỏ đến MTNT. Một số con số thống kê cụ thể về các nguồn thải, nguồn ô nhiễm, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến chất lượng MTNT, cụ thể như sau:

Khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung: Cả nước hiện có khoảng 698 CCN đang hoạt động, trong đó mới chỉ có 16,8% CCN có hệ thống XLNT, còn lại trên 83% chưa có hệ thống XLNT, vì vậy có một lượng lớn nước thải từ CCN chưa được xử lý và bị xả trực tiếp ra môi trường (hầu hết các cụm công nghiệp được hình thành tại khu vực nông thôn)

Làng nghề: Hiện tại cả nước có 4.575 làng nghề, trong đó có 2.009 làng nghề được công nhận. Hiện nay chưa có số liệu thống kê về lượng nước thải phát sinh và hiện trạng thu gom, XLNT làng nghề trên toàn quốc. Tuy nhiên, thực tế kiểm tra thời gian qua cho thấy có rất ít làng nghề có hệ thống thu gom và XLNT đáp ứng các quy định về BVMT. Theo số liệu thống kê gần đây, tại Hà Nội chỉ có khoảng 8,8% lượng nước thải làng nghề được thu gom, xử lý, còn lại phần lớn không được xử lý mà chảy thẳng ra môi trường.

Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ: Cả nước có gần 120.000 cơ sở sản xuất công nghiệp; 138 cơ sở gây ÔNMT nghiêm trọng theo Quyết định số 1788/QĐ-TTg chưa hoàn thành xử lý triệt để; 13.674 cơ sở khám, chữa bệnh, trong đó có khoảng 1.253 bệnh viện . Các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ này phát sinh khối lượng lớn CTR, CTNH, các chất ô nhiễm độc hại…tác động lớn đến môi trường, nhất là những cơ sở nằm xen lẫn trong các khu dân cư, ở những vị trí nhạy cảm về mặt môi trường.

Điểm, khai trường khai thác khoáng sản: Hiện nay có trên 5.000 mỏ và điểm khai thác khoáng sản. Hoạt động khai thác khoáng sản phát sinh khoảng 150 triệu m3 đất, đá bóc, phát sinh hơn 100 triệu m3 nước thải và hàng nghìn tấn chất thải khác. Nhiều điểm, khai trường khai thác có công đoạn tuyển phát sinh khối lượng lớn khoáng thải quặng đuôi cũng là nguồn nguy cơ gây ô nhiễm, sự cố môi trường.

Bãi chôn lấp CTR: Trên phạm vi cả nước có 904 bãi chôn lấp CTR hoặc tập kết chất thải cấp xã, trong đó, 49,1% bãi chôn lấp có diện tích nhỏ hơn 1ha, hầu hết các bãi chôn lấp đều quá tải, gần 80% bãi chôn lấp không hợp vệ sinh; 381 lò đốt, 37 dây chuyền sản xuất phân compost. Các bãi chôn lấp CTR phát sinh lượng lớn nước thải, các chất ô nhiễm gây mùi khó chịu, độc hại với sức khỏe cộng đồng, đang trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống, sinh hoạt của người dân xung quanh ở nhiều địa phương.

Canh tác nông nghiệp: Hoạt động canh tác nông nghiệp sử dụng khoảng 800 -1.000kg phân bón/ha/năm; 1,6 - 2kg thuốc BVTV/ha/năm; ước tính lượng phân bón vô cơ (phân bón hóa học) sử dụng hàng năm khoảng 7,3 - 8,6 triệu tấn/năm. Đây là những nguồn ô nhiễm phát sinh các chất ô nhiễm tồn lưu trong đất và trầm tích, theo thời gian làm cho môi trường đất bị ô nhiễm, suy thoái, thậm chí độc hại đối cây trồng và canh tác nông nghiệp.

Cơ sở chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản: Năm 2019, cả nước có khoảng 31.668 trang trại nông nghiệp, trong đó có 19.639 trang trại chăn nuôi (giảm 1.230 trang trại so với năm 2018); khoảng 467 triệu con gia cầm (tăng 14,2% so với năm 2018), hơn 24 triệu con lợn (giảm 13% so với năm 2018) . Tổng lượng nước thải phát sinh từ hoạt động chăn nuôi khoảng trên 32 triệu m3; nước thải từ hoạt động nuôi trồng thủy sản (tôm, cá tra) thâm canh, bán thâm canh khoảng 3,6 tỷ m3. Nước thải chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản chưa được xử lý đang gây ô nhiễm hữu cơ và dinh dưỡng nguồn nước mặt ở nhiều địa phương trên cả nước. Các trang trại chăn nuôi phát sinh các chất ô nhiễm gây mùi khó chịu, ảnh hưởng đến đời sống, sinh hoạt của người dân, nhất là các trang trại, cơ sở chăn nuôi gần khu dân cư tập trung.

Ngoài ra, ô nhiềm từ giết mổ gia súc, gia cầm (29.100 điểm giết mổ, trong đó có 815 điểm tập trung, còn lại là nhỏ lẻ).

Vai trò của Hội Nông dân trong công tác bảo vệ môi trường

Phân loại, đóng gói cam Cao Phong (Hòa Bình) xuất khẩu

Vai trò của Hội nông dân các cấp bảo vệ môi trường nông thôn mới

Nhằm tăng cường sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, ngày 22/11/2017, Hội Nông dân Việt Nam và Bộ TN&MTg đã ký kết Chương trình phối hợp số 48-2017/CTPH-HND-BTNMT giữa Hội Nông dân Việt Nam và Bộ TN&MT trong lĩnh vực TN&MT (7 nội dung trọng tâm) giai đoạn 2018 - 2023, trong đó có nội dung tiếp tục phối hợp triển khai có hiệu quả tiêu chí về môi trường và an toàn thực phẩm trong Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, mà trọng tâm là tuyên truyền vận động cộng đồng tham gia thu gom, phân loại, xử lý CTR sinh hoạt nông thôn, nước thải sinh hoạt, xử lý chất thải chăn nuôi, phụ phẩm nông nghiệp, chất thải làng nghề, xây dựng cảnh quan môi trường nông thôn xanh, sạch, đẹp.

Các cấp Hội nông dân cũng thường xuyên phát động và tuyên truyền về các chủ đề “Chương trình ngày thứ bảy nghĩ xanh, mua sạch”, “Đẹp nhà, Sạch đường, Sạch đồng ruộng”, “Nói không với túi nilon”...; vận động nông dân xây dựng “Gia đình văn hóa”; tham gia xây dựng “thôn, ấp, bản, làng văn hóa, xã văn hóa”. Ngoài ra, các cấp Hội đã chủ động phối hợp với các nhà khoa học, các nhà quản lý, nhà xuất bản để in ấn và phát hành hàng vạn cuốn tài liệu, tờ gấp, tờ rơi... cung cấp cho cán bộ hội viên nông dân, trong đó có các ấn phẩm về “Hỏi đáp về môi trường”, “Cẩm nang về môi trường”, “Giới thiệu những mô hình hay trong bảo vệ môi trường” và hàng chục vạn tờ gấp “Hướng dẫn sử dụng nhà tiêu”, “Sử dụng nước sạch”, “Hướng dẫn thu gom, xử lý rác”, “Hướng dẫn sử dụng an toàn thuốc BVTV”.

Tại các địa phương, hoạt động xây dựng cảnh quan môi trường được khởi sắc và thực sự mang lại hiệu quả, tạo nên những miền quê đáng sống với cảnh quan môi trường trong lành, sáng, xanh, sạch, đẹp. Ngày càng có nhiều các tổ thu gom rác thải sinh hoạt, bao bì thuốc BVTV... do cộng đồng thành lập hoạt động theo hình thức tự nguyện như mô hình “Cánh đồng không vỏ bao thuốc BVTV”. Nhiều mô hình cải tạo cảnh quan ở thôn, bản, ấp đã được các địa phương áp dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tế như (trồng hoa, cây xanh; mô hình con đường bích họa, làng bích họa; mô hình dòng sông không rác; mô hình biến bãi rác thành vườn hoa; mô hình Tuyến đường xanh - sạch - đẹp; mô hình tôn giáo tham gia BVMT, giảm nghèo bền vững... đã góp phần tạo nên một diện mạo mới ở nông thôn.

Như vậy, việc triển khai chương trình phối hợp đã góp phần tăng cường sự tham gia của Hội Nông dân trong việc huy động hội viên và nông dân tham gia BVMT trong hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư, nghiệp, vệ sinh và giữ gìn cảnh quan; BVMT nông thôn và làng nghề; phát triển mô hình BVMT gắn với xây dựng nông thôn mới; tổ chức hỗ trợ, đào tạo nghề và chuyển giao khoa học công nghệ giúp nông dân phát triển sản xuất thân thiện với môi trường và PTBV. Phong trào nông dân thi đua xây dựng nông thôn mới tiếp tục khẳng định vai trò chủ thể của nông dân, góp phần xây dựng nông thôn mới, BVMT nông thôn.

Vai trò của Hội Nông dân trong công tác bảo vệ môi trường

Thu hái chè đặc sản sạch tại Tuyên Quang

Giải pháp nâng cao vai trò của Hội Nông dân các cấp bảo vệ môi trường nông thôn mới

Giải pháp chung

Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật và các biện pháp BVMT, bảo vệ sức khỏe nông dân. Tăng cường tham gia kiểm tra, giám sát, phản biện các chính sách, quy định của pháp luật; tiếp nhận phản hồi, nguyện vọng của nông dân (vai trò cầu nối) (cần có sự giao nhiệm vụ cụ thể).

Tích cực tham gia xây dựng các mô hình Hội Nông dân tham gia thu gom, quản lý phù hợp, hiệu quả, bền vững để kiến nghị cho việc nhân rộng; phổ biến áp dụng các giải pháp, mô hình đã áp dụng thành công (đệm lót sinh học, biogas...). Tìm kiếm nguồn lực nghiên cứu, đề xuất các giải pháp thu gom, lưu giữ hiệu quả bao bì thuốc bảo vệ thực vật sau sử dụng (vấn đề vướng mắc hiện nay). Tập hợp, đề xuất với Chính phủ để ban hành, điều chỉnh các chính sách hỗ trợ nông dân thực hiện công tác BVMT cho phù hợp với thực tế.

Giải pháp cụ thể

Tăng cường phối hợp giữa hệ thống các cơ quan quản lý ngành TN&MT, tổ chức Hội Nông dân ở Trung ương và địa phương tổ chức triển khai Chương trình phối hợp số 48-2017/CTPH-HND-BTNMT về việc phối hợp thực hiện trong lĩnh vực TN&MT giai đoạn 2018 - 2023. Tham gia góp ý, xây dựng, phản biện các quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành nghề nông nghiệp, tiểu thủ công bền vững gắn với đặc thù vùng miền, vùng nguyên liệu, tập quán, đời sống văn hóa - xã hội của nông dân nông thôn. Tổ chức các đợt chiến dịch tuyên truyền, vận động người nông dân áp dụng kỹ thuật canh tác hợp lý nhằm giảm lượng hóa chất nông nghiệp, hướng dẫn sử dụng, quản lý bao bì hóa chất đúng quy cách.

Đẩy mạnh tiếp cận, phổ biến, áp dụng các mô hình, giải pháp xử lý CTR sinh hoạt nông thôn (phân loại CTR tại nguồn, ủ mùn hữu cơ); các mô hình đã áp dụng thành công tại một số địa phương khác. Định hướng cho các hội viên, tổ chức Hội Nông dân cấp xã phát triển các loại hình sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm thấp, sử dụng nguyên liệu tại chỗ, thân thiện với môi trường.

Bên cạnh đó, trang bị kiến thức (môi trường và pháp luật), tham gia xác định thiệt hại môi trường cho nông dân; tham gia xử lý các khiếu kiện của người dân liên quan đến môi trường; tham gia giải quyết các xung đột môi trường trên địa bàn.

Đưa các quy định của pháp luật về BVMT, đặc biệt là Luật BVMT năm 2020 và các văn bản dưới luật đi vào thực tiễn cuộc sống, góp phần đẩy mạnh công quản lý công tác BVMT, nâng cao chất lượng môi trường nông thôn, trong đó đẩy mạnh công tác phân loại, thu gom, xử lý CTR mà điểm mấu chốt quan trọng nhất la thực hiện phân loại CTR tại nguồn;

Quy hoạch và đầu tư (hoặc kêu gọi đầu tư) các khu xử lý chất thải tập trung, hỗ trợ việc hình thành các cơ sở tái chế chất thải quy mô lớn có sự tham gia của doanh nghiệp (tái chế nhựa, giấy, phân hữu cơ, phụ phẩm nông nghiệp, thủy tinh, phế thải xây dựng...) ưu tiên áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, thân thiện môi trường.

Tăng cường quản lý các nguồn nước thải phát sinh trên địa bàn nông thôn, đặc biệt là các nguồn phát sinh từ hoạt động sản xuất, chế biến nông lâm thủy sản; từng bước áp dụng biện pháp công nghệ kỹ thuật phù hợp để xử lý nước thải sinh hoạt, chăn nuôi, chế biến, nuôi trồng thủy sản... (bằng hình thức tập trung hoặc phân tán)

Củng cố hạ tầng BVMT cho sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nhiệp theo hướng bền vững, sinh thái, an toàn, thân thiện với môi trường; tăng cường quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ONMT trên địa bàn nông thôn.

Thống kê, khoanh vùng, xử lý các khu vực hiện đang bị ô nhiễm, đặc biệt là các khu vực ô nhiễm tồn lưu do chôn lấp chất thải gây ra.

Cải thiện và không ngừng nâng cao chất lượng môi trường sống cho người dân, thay đổi tư duy và tập quán chăn nuôi, sinh hoạt; trao quyền và trách nhiệm cho người dân trong xây dựng và giữ gìn cảnh quan nông thôn truyền thống; sáng - xanh - sạch - đẹp - văn minh - an toàn.

                                                                                                     Tâm Đức