Xây dựng cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện kinh tế tuần hoàn

Thứ tư, 6/3/2024, 10:42 (GMT+7)
logo Đề án Phát triển Kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 07/06/2022, khẳng định việc chủ động phát triển kinh tế tuần hoàn là tất yếu, phù hợp với xu hướng, yêu cầu tạo đột phá trong phục hồi kinh tế và thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững tại Việt Nam,… Các doanh nghiệp Việt Nam ở các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, bước đầu tiếp cận mô hình kinh tế tuần hoàn. Tuy nhiên, nhận thức về kinh tế, kinh doanh tuần hoàn còn hạn chế, chưa thấy được tầm quan trọng thực sự đối với sự phát triển bền vững. Do đó, cần thiết phải xây dựng các cơ chế, chính sách phù hợp đánh thức các doanh nghiệp tham gia kinh tế tuần hoàn.

Xây dựng cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện kinh tế tuần hoàn

Ảnh minh họa

Ủy ban châu Âu, trong Kế hoạch Hành động của mình về Nền KTTH (2015) đã định nghĩa: “Trong nền KTTH, giá trị của sản phẩm và nguyên liệu được duy trì càng lâu càng tốt; chất thải và sử dụng tài nguyên được giảm thiểu, và các nguồn tài nguyên được giữ trong nền kinh tế khi một sản phẩm đã hết vòng đời, sẽ được sử dụng để tiếp tục tạo ra giá trị hơn nữa”. Điều này có nghĩa, KTTH sẽ giúp làm chậm lại, chấm dứt và thu hẹp chu trình về tài nguyên để thay thế đặc trưng “khai thác - sản xuất - chôn lấp” hiện tại của mô hình tuyến tính Bản chất của KTTH là tính khôi phục và tính tái tạo, với 3 nội hàm cơ bản: Bảo tồn và phát triển vốn tự nhiên thông qua việc kiểm soát hợp lý các tài nguyên không thể phục hồi và cân đối với các tài nguyên có thể phục hồi, các nguồn năng lượng tái tạo; tối ưu hóa lợi tức của tài nguyên bằng cách tuần hoàn các sản phẩm và vật liệu nhiều nhất có thể trong các chu trình kỹ thuật và sinh học; nâng cao hiệu suất chung của toàn hệ thống bằng cách chỉ rõ và thiết kế các ngoại ứng tiêu cực (thiết kế chất thải, thiết kế ô nhiễm). Cho đến nay, khái niệm KTTH do Quỹ Ellen MacArthur (2016) đưa ra là khái niệm được sử dụng rộng rãi nhất, theo đó: “KTTH là một nền kinh tế mang tính phục hồi và tái tạo theo thiết kế và nhằm đến việc giữ cho các sản phẩm, thành phần và vật liệu ở mức tiện ích sử dụng và giá trị cao nhất tại mọi thời điểm, có sự phân tách giữa chu kỳ kỹ thuật và sinh học”.

Theo Geissdoerfer và cộng sự (2018), mô hình KTTH/kinh doanh tuần hoàn (KDTH) là sự đại diện được đơn giản của một hệ thống tổ chức phức tạp và các mối quan hệ nhằm mục đích “làm chậm, thu hẹp và khép kín các vòng lặp của nguồn nguyên liệu”. Trong khi đó, Sehnem (2019) định nghĩa rằng mô hình KDTH là những mô hình kinh doanh có liên quan đến việc tạo ra giá trị thông qua việc khai thác giá trị còn lại của các sản phẩm cũ để sản xuất ra những sản phẩm mới theo yêu cầu của khách hàng. Bocken và cộng sự (2019) cho rằng mô hình KDTH tập trung vào việc làm chậm, chấm dứt hoặc thu hẹp các vòng đời nhằm duy trì các giá trị kinh tế của sản phẩm càng lâu càng tốt, giảm các tác động môi trường và mang các giá trị to lớn đến khách hàng.

Có thể khái quát nội hàm của mô hình KDTH là nhắm tới việc làm chậm, chấm dứt hoặc thu hẹp và khép kín vòng lặp nguyên liệu, duy trì các giá trị kinh tế của sản phẩm, giảm các tác động môi trường.

Kết quả khảo sát năm 2022 của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương thực hiện đối với 500 doanh nghiệp cho thấy, chỉ 21%-33% số doanh nghiệp được hỏi cho biết họ biết rõ hoặc rất rõ về một trong 6 mô hình KDTH phổ biến, trong đó mô hình có tỷ lệ biết rõ cao nhất là “tân trang và tái sản xuất” với 33% và mô hình có tỷ lệ biết ở mức rõ trở lên thấp nhất là sắp xếp và định vị lại mục đích sử dụng với chỉ gần 21%. Các doanh nghiệp đã từng áp dụng biện pháp đổi mới mô hình kinh doanh và/hoặc áp dụng một trong các mô hình kinh doanh theo hướng tuần hoàn cho thấy sự hiểu biết vượt trội so với các doanh nghiệp chưa từng áp dụng, với 28%-38,5% so với 9,4%-22% biết rõ hoặc rất rõ về các mô hình KDTH phổ biến.

Tỷ lệ các doanh nghiệp chưa biết đến các mô hình KDTH được đề cập là 8% - 15% tổng số các doanh nghiệp được khảo sát, trong đó tỷ lệ ở nhóm chưa áp dụng bất cứ hình thức đổi mới mô hình kinh doanh hoặc áp dụng mô hình KDTH là cao hơn đáng kể, từ 10% - 24% tùy theo từng loại mô hình, trong đó mô hình “Tái chế” chỉ dưới 10% chưa biết tới.

Mức độ áp dụng kinh doanh/ kinh tế tuần hoàn

Về áp dụng KTTH ở cấp độ doanh nghiệp, Việt Nam đã bước đầu hình thành một số mô hình KDTH. Ngày 21/6/2019, 09 công ty hàng đầu (TH Group, Coca-Cola Việt Nam, FrieslandCampina Việt Nam, La Vie, Nestlé, Nutifood, Suntory Pepsico Việt Nam, Tetra Pak và Universal Robina Corporation) đã bắt tay thành lập Liên minh Tái chế bao bì Việt Nam (Pro Vietnam) với cam kết tái chế toàn bộ bao bì tại Việt Nam vào năm 2030.

Kết quả khảo sát, điều tra cho thấy, mức độ áp dụng KDTH tại các doanh nghiệp là tương đối thấp, cả ở góc độ đổi mới mô hình kinh doanh và áp dụng mô hình kinh doanh theo hướng tuần hoàn.

Tỷ lệ các doanh nghiệp áp dụng đổi mới mô hình kinh doanh theo 5 hình thức gồm: “Bán sản phẩm theo chức năng”, “Từ gốc đến gốc”, “Quản lý chuỗi cung ứng xanh’, “Cộng sinh công nghiệp” và “Quản lý thu hồi” ở mức tốt chỉ chiếm 3% - 6%, tuỳ thuộc vào hình thức, trong đó hình thức đổi mới mô hình theo cách “Quản lý chuỗi cung ứng xanh” có tỷ lệ áp dụng cao nhất, chiếm 6,1%. Trong khi đó, tỷ lệ các doanh nghiệp áp dụng mô hình kinh doanh theo hướng tuần hoàn theo sáu hình thức gồm: Sữa chữa và bảo trì, sử dụng và phân phối lại, tân trang và sản xuất lại, tái chế và thu hồi vật liệu, sắp xếp và định vị lại mục đích sử dụng sản phẩm và sử dụng nguyên liệu hữu cơ ở mức tốt dao động từ 3,3% - 5,5%, trong đó hình thức tái chế và thu hồi vật liệu có tỷ lệ áp dụng ở mức tốt cao nhất với 5,5%. Tỷ lệ các doanh nghiệp chưa từng áp dụng bất kỳ hình thức đổi mới mô hình kinh doanh và/hoặc mô hình kinh doanh theo hướng tuần hoàn nào là 37,6%.

Về thực trạng khuyến khích, hỗ trợ đối với các doanh nghiệp có áp dụng đổi mới mô hình kinh doanh và áp dụng mô hình kinh doanh theo hướng tuần hoàn. Tỷ lệ các doanh nghiệp được nhận một trong các hình thức hỗ trợ như tín dụng, lãi suất, khoa học công nghệ, đào tạo, thị trường, mặt bằng sản xuất,… là khá thấp, chỉ chiếm từ 2% - 15% tuỳ theo từng hình thức hỗ trợ.

Hỗ trợ mặt bằng sản xuất kinh doanh cho dây chuyền áp dụng quy trình KDTH là nhóm có tỷ lệ nhận được hỗ trợ thấp nhất, chỉ chiếm 2%, trong khi nhóm hỗ trợ về “đào tạo” có tỷ lệ được nhận hỗ trợ cao nhất, chiếm 15%. Nhóm doanh nghiệp có đổi mới mô hình kinh doanh có tỷ lệ nhận được hỗ trợ cao hơn nhóm có áp dụng mô hình kinh doanh theo hướng tuần hoàn, dao động từ 2,8% - 14,9% so với mức 2,3% - 12% tuỳ từng hình thức hỗ trợ. Nhóm doanh nghiệp vừa đổi mới mô hình kinh doanh vừa áp dụng mô hình kinh doanh theo hướng tuần hoàn có tỷ lệ nhận được các hỗ trợ là cao nhất, với tỷ lệ là 2,9% - 15,4% tuỳ theo hình thức hỗ trợ khác nhau.

Các chủ trương, chính sách về KTTH nói chung, KDTH nói riêng đã được chú trọng và thể hiện ngày càng cụ thể trong các nghị quyết của Đảng, chiến lược phát triển kinh tế, luật, chính sách phát triển các ngành cụ thể. Hệ thống pháp luật đang dần được hoàn thiện với cách tiếp cận dựa vào thị trường, tôn trọng các nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường ngày càng được nhất quán và đồng bộ. Nhận thức và sự quan tâm của toàn xã hội đối với KTTH/KDTH đã và ngày càng gia tăng, xét theo chiều rộng và chiều sâu. Nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp cũng như người tiêu dùng Việt Nam đã có sự chuyển biến tích cực sang việc sản xuất và sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường, tiết kiệm năng lượng, giảm lãng phí tài nguyên,… Điều này, vừa là động lực, vừa là áp lực đổi mới cho khu vực sản xuất, cung ứng các dịch vụ trong nền kinh tế để thực hiện sản xuất sạch hơn, sản xuất và cung ứng các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ thân thiện với môi trường, giảm thiểu các tác động xấu đến môi trường. Đã dần hình thành những mô hình kinh doanh theo hướng tuần hoàn cả ở cấp độ chuỗi, nhóm và ở các doanh nghiệp riêng lẻ. Các doanh nghiệp Việt Nam ở các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, dựa trên các đặc điểm ngành đã thiết kế các quy trình tái chế, tái sử dụng, mô hình kinh doanh tuần hoàn hoặc các hoạt động sản xuất bước đầu tiếp cận mô hình kinh doanh tuần hoàn.

Tuy nhiên, nhận thức về kinh tế, KDTH còn hạn chế, chưa thấy được tầm quan trọng thực sự của kinh tế/KDTH đối với sự phát triển bền vững, cả đối với toàn bộ nền kinh tế cũng như với chính bản thân các doanh nghiệp. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chưa nhận thức và đánh giá đúng vai trò của kinh doanh theo hướng tuần hoàn đối với bản thân doanh nghiệp của họ. 

Các quy định về KTTH nói chung và KDTH nói riêng mặc dù đã có nhưng phần lớn vẫn đang nằm ở dạng chính sách, chưa được cụ thể hoá thành các chương trình, kế hoạch hành động cụ thể, và vì vậy gần như rất ít được triển khai trong thực tế. Điều này dẫn đến các hoạt động hỗ trợ chính thức nhằm phát triển đối với các mô hình KDTH gần như chưa được thực hiện. Thiếu các quy định cụ thể đối với các hoạt động kinh doanh theo hướng tuần hoàn, ví dụ các hỗ trợ về tài chính, công nghệ, đào tạo, tư vấn, thị trường cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm áp dụng các mô hình, quy trình theo hướng KDTH. Mô hình kinh doanh tuần hoàn đã xuất hiện ở một số doanh nghiệp trong thời gian gần đây, nhưng mức độ áp dụng còn thấp.

Đa số doanh nghiệp Việt Nam chưa áp dụng, thậm chí là chưa tìm hiểu về kinh doanh tuần hoàn, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chỉ có khoảng 3-6% doanh nghiệp được hỏi cho rằng đã áp dụng đổi mới mô hình kinh doanh hoặc đã áp dụng một trong những nội dung của mô hình kinh doanh tuần hoàn ở mức đầy đủ - Việc chuyển đổi sang KTTH/KDTH tại Việt Nam còn nhiều hạn chế bởi các rào cản về công nghệ, khuyến khích về mặt kinh tế, các yếu tố xã hội, các yếu tố về chuỗi giá trị.

Theo Kết quả điều tra 500 doanh nghiệp năm 2022 của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương: 74% doanh nghiệp được khảo sát cho rằng việc thiếu sự thích nghi và phù hợp của các chính sách với bối cảnh địa phương là rào cản ở mức độ lớn và rất lớn đối với phát triển KDTH; 55% các doanh nghiệp được khảo sát cho rằng “Thiếu các cam kết về pháp luật cả ở bình diện quốc tế và trong nước và thiếu cam kết trong tham gia các khuôn khổ hỗ trợ cho KTTH” sẽ cản trở việc phát triển KDTH ở mức lớn và rất lớn; 53%-55% các doanh nghiệp cho rằng “Mức độ phát triển kinh tế thấp khiến việc triển khai KTTH trên quy mô lớn trở nên khó khăn”, “Thiếu sự khuyến khích về mặt kinh tế” và “Hệ thống thuế ủng hộ nền kinh tế tuyến tính và chưa hỗ trợ KTTH” là những rào cản lớn và rất lớn đối với phát triển kinh tế, KDTH; 63% doanh nghiệp cho rằng “Sự không thiện cảm của xã hội đối với việc thay đổi hành vi, giá trị và thái độ hiện tại” tạo nên rào cản lớn và rất lớn cho sự phát triển kinh doanh theo hướng tuần hoàn; 98% doanh nghiệp cho rằng các hạn chế về trình độ công nghệ hiện tại là rào cản đối với việc phát triển mô hình KDTH.

Xây dựng cơ chế khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện kinh tế tuần hoàn

Đối với nhà nước, tăng cường nhận thức về KTTH nói chung và KDTH nói riêng trong toàn xã hội cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở các cấp, cộng đồng doanh nghiệp, và người dân, đặc biệt về vai trò và cách thức triển khai mô hình; về các chủ trương, định hướng, chính sách phát triển kinh tế/KDTH.

Hoàn thiện khung pháp luật về kinh tế/KDTH, đặc biệt là các quy định chính sách nhằm khuyến khích, hỗ trợ phát triển các mô hình kinh doanh một cách hiệu quả, phù hợp với đặc điểm của quốc gia và điều kiện của từng ngành nghề, từng doanh nghiệp. Cần có các quy định cụ thể nhằm khuyến khích phát triển các mô hình KDTH dựa trên nhu cầu của thị trường.

Phát triển khoa học công nghệ nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp chuyển đổi sang mô hình KDTH; đẩy mạnh đổi mới cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ phù hợp với cơ chế thị trường, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế hiện nay; đẩy mạnh cơ chế phối hợp giữa nhà nước, doanh nghiệp và các tổ chức liên quan trong hoạt động khoa học.

Xây dựng và áp dụng các bộ tiêu chuẩn, khung hướng dẫn áp dụng KTTH, KDTH, đặc biệt là xây dựng sổ tay hướng dẫn áp dụng mô hình KDTH cho các doanh nghiệp theo ngành, lĩnh vực, quy mô.

Đối với doanh nghiệp cần thực hiện phân tích chi phí - lợi ích (CBA) của mô hình KDTH mà doanh nghiệp dự kiến áp dụng trước và sau khi chuyển đổi để thấy rõ được tiềm năng, lợi ích của việc chuyển đổi. Nói cách khác, việc áp dụng mô hình đó sẽ đem lại lợi ích như thế nào cho doanh nghiệp. Từ đó đưa ra quyết định có nên chuyển đổi hay không, nếu chuyển đổi thì lộ trình như thế nào, cách thức ra sao,… Thực hiện các giải pháp 9R theo thứ tự ưu tiên (dự án, cơ sở sản xuất) gắn với tư vấn từ các chuyên gia để giúp doanh nghiệp chuyển đổi sang mô hình KDTH, từ chuyên gia chính sách, thiết kế, công nghệ,... tùy thuộc vào mỗi loại hình doanh nghiệp.

Chú trọng truyền thông khi chuyển đổi sang mô hình KDTH của doanh nghiệp để nhận được sự ủng hộ và hỗ trợ tốt nhất, hiệu quả nhất, nhất là đối với những doanh nghiệp đang có tác động lớn đến môi trường với mô hình kinh doanh tuyến tính hiện tại.

Phát triển thị trường đầu ra sản phẩm của doanh nghiệp, đặc biệt là hướng tới các thị trường xuất khẩu ở các nước phát triển, có ưu tiên đối với các sản phẩm xanh, sản phẩm từ KDTH để tận dụng được sự ủng hộ và những ưu đãi từ Chính phủ, người tiêu dùng của thị trường đó.

Tham gia có hiệu quả các chuỗi liên kết, mạng sản xuất, từ trong nước đến phạm vi khu vực và toàn cầu để tăng cường sự kết nối và tìm kiếm cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp khác, nhất là đối với các doanh nghiệp có mối liên hệ về sử dụng chất thải đầu ra làm nguyên vật liệu đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.

NGUYỄN NGỌC TÚ, NGUYỄN THỊ MAI NGÂN

Viện Chiến lược, chính sách tài nguyên và môi trường (Isponre)

Nguồn: Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 23 (Kỳ 1 tháng 12 năm 2023)